Đại dịch COVID-19 hé lộ điều gì về bức tranh tư vấn khoa học đang tiến hóa

Chủ nhật - 10/10/2021 19:18

Peter Gluckman và Binyam Sisay Mendisu

Các quan điểm gây tranh cãi

Mối quan hệ giữa khoa học, xã hội, chính sách và chính trị đã và đang luôn phức tạp và gây tranh cãi. Chúng ta chỉ cần xem xét những trở ngại mà cộng đồng khoa học gặp phải trong vài thập kỷ qua trong nỗ lực thuyết phục cộng đồng chính trị toàn cầu thừa nhận và hành động đối với biến đổi khí hậu do các hoạt động của con người thúc đẩy, hoặc cuộc tranh cãi đang diễn ra về vai trò của cây trồng biến đổi gen trong việc đảm bảo an ninh lương thực, hay khó khăn trong việc thuyết phục các chính phủ giải quyết tình trạng béo phì và những hậu quả của nó.

Nhiều, nếu không nói là hầu hết, các quyết định chính sách có khía cạnh khoa học. Trong khi các hệ thống tư vấn khoa học ban đầu đã tiến hóa trong các nền kinh tế tiên tiến lớn làm việc chủ yếu với các vấn đề quốc phòng và công nghệ, chúng bây giờ đóng vai trò quan trọng trong các lĩnh vực như môi trường, tiến bộ xã hội và sức khỏe.

Đại dịch COVID-19 đã đưa các mối quan hệ đó thành trọng tâm chưa từng thấy. Từ những ngày đầu của đại dịch, các chính phủ đã phải đưa ra các quyết định sâu rộng trong bối cảnh kiến thức không hoàn chỉnh và đang tiến hóa về virus. Các quyết định đó đã được nhiều người thừa nhận như là sự cân nhắc lựa chọn đang tiến hóa giữa sức khỏe, kinh tế, phúc lợi xã hội và các quyền cá nhân, khi mà sự khóa lại (lockdown) đã làm chậm lại hoạt động kinh tế và kiềm chế sự di chuyển của cá nhân. Nhiều chính phủ đã công nhận tầm quan trọng sống còn của phân tích và tư vấn khoa học trong hỗ trợ ra quyết định của họ.

Dù bài luận này tập trung vào tương tác giữa khoa học và cộng đồng chính sách trong đại dịch COVID-19 hiện hành, việc sử dụng hiệu quả khoa học trong việc hoạch định chính sách cuối cùng bắt nguồn từ lòng tin của công chúng đối với cả cộng đồng khoa học và các cơ quan của chính phủ. Các bài học học được trong đại dịch COVID-19 vì thế có thể có các tác động lớn hơn về việc các quốc gia có thể sử dụng bằng chứng khoa học tốt hơn như thế nào để phát triển và triển khai các chính sách trong tương lai.

Vượt ra khỏi vai trò cơ bản và liên tục sinh ra kiến thức mới của cộng đồng khoa học trong đại dịch, hai thành phần trung tâm của tư vấn khoa học đã có vai trò quan trọng: tổng hợp bằng chứng (tổng hợp bằng chứng khoa học có sẵn và thường chưa hoàn chỉnh để hỗ trợ cho các chính phủ) và môi giới bằng chứng (truyền thông bằng chứng khoa học được tổng hợp và được giải thích cho cả các chính phủ và công dân của họ).

Vectơ tổng hợp bằng chứng

Để có giá trị, tổng hợp bằng chứng phải là trình bày cân bằng và toàn diện những gì đã biết và chưa biết, đối nghịch với biện hộ có thiên kiến. Tổng hợp bằng chứng cần được đa ngành thông báo, như được minh họa bằng một trường hợp điển hình của Uruguay (Hộp 1).

Hộp 1: Uruguay: các khu vực nghiên cứu công và tư cùng tiến bước

Sau 4 trường hợp đầu tiên COVID-19 đã được phát hiện ở Uruguay hôm 13/03/2020, chính phủ ngay lập tức đã công bố ‘tình trạng khẩn cấp về sức khỏe’.

Các tuần trước đó, biết trước sự xuất hiện của virus là không thể tránh khỏi, các nhà chức trách về sức khỏe đã liên hệ với nhóm các nhà nghiên cứu ở một trường đại học chính, Universidad de la República, và Viện Pasteur de Montevideo, để khai phá tiềm năng phát triển kiểm thử chuẩn đoán của địa phương. Điều này đã dẫn tới việc ký thỏa thuận vào tháng 3 giữa khu vực hàn lâm và chính phủ, nó đã cho thấy nhiều nơi trong cộng đồng y sinh học dịch chuyển trọng tâm của mình hướng tới việc cung cấp sự tinh thông, nhân lực, trang thiết bị và thuốc thử để đấu tranh chống virus.

Trong khoảng một tháng, các kiểm tra phân tử được địa phương tiến hành đã được thẩm định để cung cấp. Song song, các phòng thí nghiệm nghiên cứu đã bắt đầu thiết kế và phát triển các xét nghiệm huyết thanh học để dò tìm ra kháng thể ở người bệnh với miễn dịch có được mà đã được Bộ Y tế Công cộng thẩm định vào tháng 8/2020.

Các nỗ lực của khu vực công đã được song hành với các sáng kiến của tư nhân, tạo ra khả năng kiểm thử được cung cấp tốt và rộng lớn.

Vào tháng 4/2020, chính phủ đã thành lập Nhóm Tư vấn Khoa học gồm 3 điều phối viên, một điều phối viên có nhiệm vụ chung và một điều phối viên về sức khỏe và khoa học dữ liệu và mô hình hóa. Ba người này đã lựa chọn một nhóm 55 nhà khoa học và các chuyên gia hàng đầu quốc gia để sinh ra các báo cáo tuần cho chính phủ với tư vấn của họ trải từ các biện pháp sức khỏe được khuyến cáo cho tới việc rà soát lại và giảm các hạn chế xã hội.

Nhóm tư vấn Khoa học đó cũng tiến hành các cuộc phỏng vấn với báo chí và tổ chức các cuộc họp báo để cung cấp cho công chúng bằng chứng khoa học về các khía cạnh sinh học, dịch tễ học và bệnh lý học của virus và lý lẽ cho các can thiệp sức khỏe của xã hội và công chúng, như mở lại các trường học như một phần của quy trình phục hồi.

Có sự đồng thuận quốc gia rằng chiến lược nhiều khía cạnh này đã thành công trong việc giảm thiểu gánh nặng bệnh tật ở các mức cá nhân và xã hội ở Uruguay.

Nguồn: Prof. Rafael Radi, MD, PhD, Professor and Chair of Biochemistry, Director, Centro de Investigaciones Biomédicas (CEINBIO), Facultad de Medicina, Universidad de la República Montevideo, Uruguay


Rất thường thấy trong quá khứ, các quan điểm từ các khoa học xã hội và nhân văn đã bị bỏ qua, bất kể thực tế là hành vi của con người và các khía cạnh xã hội học là chìa khóa cho việc ra quyết định thành công, như được các tranh luận về cả đại dịch COVID-19 và biến đổi khí hậu thể hiện.

Tổng hợp bằng chứng thường xuyên nhất được các nhân viên hàn lâm khoa học quốc gia tiến hành. Tuy nhiên, các ủy ban dựa vào khoa học và kỹ thuật quốc gia, các văn phòng tư vấn khoa học, các ủy ban đặc biệt, các viện nghiên cứu và các phòng ban của các trường đại học tất cả đều có thể cung cấp tổng hợp bằng chứng.

Thật đáng mừng khi ngày càng có nhiều quốc gia có thu nhập thấp hơn đã đầu tư vào phát triển các học viện khoa học trong những năm gần đây, bao gồm 28 quốc gia châu Phi. Viện hàn lâm Nam Phi đã sản xuất ra các báo cáo tổng hợp bằng chứng cho những người làm chính sách, chúng đặc biệt có giá trị toàn cầu1.

GS. Madiagne Diallo của Hội đồng Kinh tế, Xã hội và Môi trường của Senegal2 quan sát thấy số lượng gia tăng các chính phủ châu Phi đã và đang tiếp cận các viện hàn lâm khoa học để có tư vấn từ trước khi có đại dịch này. Ví dụ, vào năm 2015, Chính phủ Cameroon đã giao nhiệm vụ cho viện hàn lâm khoa học với việc phát triển khung chính sách công nghệ sinh học quốc gia. Năm 2019, Chính phủ Senegal đã giao nhiệm vụ cho viện hàn lâm khoa học của nó với việc cung cấp tổng hợp bằng chứng hiện trạng của các sinh vật biến đổi gen, những thách thức và triển vọng liên quan đối với Senegal.

Ngoài ra, có số lượng gia tăng các nhân viên hàn lâm trẻ, cũng như các nhóm quốc tế như Hiệp hội Thế giới các Nhà khoa học Trẻ và Viện hàn lâm Trẻ Toàn cầu. Các viện hàn lâm trẻ đó đang đưa ra tiếng nói liên các thế hệ có giá trị và đã chủ động tích cực trong nắm bắt tầm quan trọng của các tiếp cận liên ngành.

Sự nổi lên của tiếp cận vùng và tiểu vùng về cung cấp tư vấn khoa học từng là sự phát triển quan trọng. Tiếp cận này có thể ở dạng các cơ quan vùng. Ví dụ, Cộng đồng Thái bình dương (Pacific Community) nằm ở Noumea, New Caledonia (Pháp), cung cấp cho nhiều quốc gia biển đảo nhỏ ở Thái bình dương hỗ trợ kỹ thuật và khoa học trong các lĩnh vực như các tài nguyên biển và sức khỏe công chúng. Viện Khoa học châu Phi cũng cung cấp các phân tích bằng chứng cho các quốc gia châu Phi.

Bất chấp sự hợp tác này, năng lực và khả năng của cơ sở và cá nhân vẫn cần xây dựng ở nhiều quốc gia và khu vực. Với việc cấp vốn thí điểm từ Tập đoàn Nghiên cứu Phát triển Quốc tế - IDRC (International Development Research Corporation), Mạng Quốc tế về Tư vấn Khoa học của Chính phủ – INGSA (International Network for Government Science Advice) đã thiết lập Mạng Tư vấn Khoa học Đông Nam Á - SEASAN (Southeast Asian Science Advice Network) vào năm 2020 để tạo thuận lợi cho tổng hợp bằng chứng chung và chia sẻ thông tin cho các nhà khoa học cao cấp với trách nhiệm tư vấn qua một nền tảng trên trực tuyến; trọng tâm là nhằm vào các vấn đề về mối quan tâm khu vực được chia sẻ có liên quan tới các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) tới năm 2030 của Liên hiệp quốc. Nền tảng này sẽ phát triển, chia sẻ và tiếp cận các báo cáo và phân tích các mối liên quan chung và triển khai tổng hợp bằng chứng về các vấn đề chung, cho phép từng quốc gia riêng rẽ cân nhắc cách để kết hợp kiến thức đó đúng thích đáng vào việc ra quyết định của họ. Qua thời gian, khi các lợi ích của các đầu vào có cấu trức trở nên rõ ràng hơn, hy vọng sáng kiến này sẽ dẫn tới thể chế hóa lớn hơn tư vấn khoa học.

Các đánh giá toàn cầu là dạng tổng hợp bằng chứng hơn nữa. Hai ví dụ là các đánh giá được Nhóm Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu triển khai, được Tổ chức Khí tượng Thế giới về Biến đổi Khí hậu và Chương trình Môi trường của Liên hiệp quốc (UNEP) tài trợ, và chúng được Nền tảng Chính sách Liên chính phủ về các Dịch vụ Đa dạng sinh thái và Hệ sinh thái - IPBES (Intergovernmental Policy Platform on Biodiversity and Ecosystem Services) triển khai, được UNESCO, UNEP, Tổ chức Nông Lương và Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc tài trợ.

Các khía cạnh môi giới bằng chứng

Môi giới bằng chứng là quá trình chuyển giao hiệu quả hiểu biết phương pháp khoa học sang cho cộng đồng chính sách và những người làm chính sách chính trị, trong khi công nhận nhiều yếu tố khác ảnh hưởng tới các quyết định chính sách. Môi giới có thể, có hoặc không, được chính các tác nhân đã triển khai tổng hợp bằng chứng cung cấp.

Môi giới phải là nhạy cảm với thực tế là các quyết định chính sách dựa vào nhiều yếu tố khác vượt ra khỏi bằng chứng khoa học. Các giá trị xã hội, sự chấp nhận của công chúng, lý tưởng chính trị và các ưu tiên, các hợp đồng điện tử, các yếu tố ngoại giao và kinh tế, tất cả đều là một phần của việc ra quyết định.

Dù tư vấn khoa học có thể có gốc gác lịch sử của nó trong khoa học tự nhiên và công nghệ, môi giới hiệu quả ngày càng mang tính liên ngành. Ngày càng gia tăng, các khoa học xã hội và nhân văn là trung tâm cho cả tổng hợp bằng chứng và môi giới. Một khía cạnh đặc biệt nhạy cảm là làm thế nào để đối phó với các nguồn tri thức khác có thẩm quyền nhưng không dựa trên các quy trình khoa học. Việc tích hợp kiến thức bản địa với kiến thức khoa học chính thống đòi hỏi sự hiểu biết và tôn trọng đặc biệt.

Các lựa chọn đánh giá

Tất cả việc ra chính sách liên quan tới việc chọn giữa các lựa chọn (bao gồm các lựa chọn duy trì tình trạng ban đầu), từng trong số đó có các tác động và chọn lựa khác nhau. Khi chào tư vấn khoa học, mục đích chính là hỗ trợ cho cộng đồng chính sách để chọn giữa các lựa chọn sẵn có.

Làm như vậy, chức năng môi giới phải luôn cân nhắc rủi ro suy diễn, ấy là, những gì là các tác động của sự không chắc chắn (chúng luôn hiện diện)? Để giảm thiểu rủi ro, bên môi giới xác định những gì biết và không biết và những cạm bẫy của bất kỳ tổng hợp nào, đặc biệt có liên quan đến xác suất và giải thích các giả định được đưa ra. Người làm chính sách phải hiểu các tác động tiềm tàng của các lựa chọn khác nhau trong ngữ cảnh không chắc chắn. Thách thức này là hiển nhiên trong các lựa chọn khác nhau các quốc gia đã đưa ra về cách làm thế nào họ tiếp cận COVID-19. Ví dụ, các quyết định sớm được vài quốc gia đưa ra dường như là đã dựa vào các suy diễn về phát triển sớm khả năng miễn dịch cộng đồng mà không được các sự kiện sau đó chứng minh. Đã nhận biết được rủi ro trong suy diễn đó, các quốc gia khác chọn các tiếp cận khắt khe hơn nhiều.

Là quan trọng đối với bên môi giới để tránh cái bẫy lựa chọn bằng chứng để đáp ứng các kết quả đầu ra chính trị được xác định trước.

Các khó khăn của việc ra quyết định và cân bằng các lợi ích cạnh tranh, thậm chí khi được bằng chứng thông báo, đã được khủng hoảng COVID-19 minh họa lặp đi lặp lại. Khi hầu hết các quốc gia ở châu Phi và nhiều nước khắp trên thế giới chọn áp đặt khóa nghiêm ngặt, Ethiopia đã chọn con đường khác. Nó đã tập trung vào việc ép tuân thủ các biện pháp sức khỏe, bao gồm thúc đẩy vệ sinh cá nhân, đeo khẩu trang bảo vệ và giãn cách xã hội ở những nơi công cộng. Dù các biện pháp khóa nghiêm ngặt có ý nghĩa từ quan điểm sức khỏe công cộng, nó có thể đã làm cho cuộc sống không thở được đối với nhiều hộ gia đình nghèo dựa chủ yếu vào thu nhập từ khu vực phi chính quy. Mặc dù người phán xét vẫn chưa xác định được hiệu quả và lợi ích lâu dài của những lựa chọn thay thế này, các quyết định chính sách được đưa ra cần phải được hiểu trong bối cảnh địa phương có các nhu cầu cạnh tranh. Điều này nhấn mạnh nhu cầu có nhiều đầu vào khoa học, bao gồm từ các khoa học xã hội và nhân văn nhưng nó cũng minh họa thực tế là việc ra quyết định cuối cùng phụ thuộc vào dải các phán xét dựa và các tác giả từ các chính trị gia.

Điều hướng giao diện

Giao diện giữa tổng hợp và môi giới tất nhiên là phức tạp. Trong khi tổng hợp bằng chứng có xu hướng là minh bạch ở dạng tóm tắt hoặc báo cáo chính sách, và trong khi vài môi giới là tương tự ở dạng các báo cáo chính thức, nhiều trong số đó là phi chính thức, đặc biệt ở các giai đoạn sớm của hình thành chính sách hoặc trong tình trạng khẩn cấp, và có ở dạng đối thoại giữa bên môi giới và cộng đồng chính sách. Ai tham gia trong đối thoại này sẽ phụ thuộc vào cơ chế hiện có, liệu cơ chế môi giới là ban hay ủy ban, nhóm tư vấn khoa học hay liệu viện khoa học quốc gia có đóng vai trò nào không. Trong tình trạng khẩn cấp, các cơ chế hiện đại hiệu quả có thể được tạo ra, như ở Sri Lanka (Hộp 2) và Jamaica (Hộp 3) nhưng các tiếp cận hiện đại như vậy sẽ không đảm bảo đầu vào thích hợp cho vô số lĩnh vực hoạch định chính sách không cấp bách nơi khoa học có thể hỗ trợ.

Môi giới thường liên quan đến việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cá nhân với người ra quyết định chính trị và do đó, liên quan đến các cá nhân như cố vấn khoa học hoặc viện sĩ cấp cao. Ngày càng được thừa nhận rằng chức năng môi giới đòi hỏi tập hợp đặc biệt các kỹ năng và hiểu biết bối cảnh của cả khoa học và các hệ thống chính . Các chương trình đào tạo đặc biệt đã được INGSA và các đối tác phát triển để hỗ trợ cho phát triển các kỹ năng đó.

Hộp 2: Chương trình ngăn chặn hào phóng của Sri Lanka

Sau khi bệnh nhân COVID-19 đầu tiên đã được xác định vào tháng 1/2020, một đội đặc nhiệm hiện đại của phủ tổng thống và một Ủy ban Kỹ thuật riêng đã được thành lập để ngăn chặn và quản lý sự lây nhiễm ở Sri Lanka, trong khi thiếu một cơ quan tư vấn khoa học được thiết lập.

Nhu cầu một chiến lược ngăn chặn mạnh đã được thừa nhận như là ưu tiên chính, phù hợp với năng lực giám tuyển hạn chế của hệ thống y tế, đặc biệt khi lo ngại về dịch vụ chăm sóc tăng cường. Ngành y đã yêu cầu khóa hoàn toàn khắp toàn quốc đi kèm với việc đóng cửa hàng không quốc tế đối với các hành khách, cũng như theo dõi và lần vết các mối liên hệ.

Hơn 9 tháng trong đại dịch, cuộc sống ở Sri Lanka đã dần trở lại bình thường. Tính đến tháng 11 năm 2020, số ca nhiễm đã được giới hạn ở hơn 17.000 ca đã được xác nhận, với tỷ lệ tử vong thấp, chỉ 0,27 trên 100.000 dân - ngay cả khi mối đe dọa gia tăng vẫn còn. Thành công vì thế đã được ghi nhận cho các yếu tố sau đây:

  • các chiến lược tập trung, hài hòa và có phối hợp huy động được tất cả các bên liên quan và các nguồn lực cả của công và tư;

  • ngăn chặn lan truyền trong cộng đồng, nhờ nhắc nhở và lần vết liên hệ nghiêm ngặt được các dịch vụ tình báo, các biện pháp kiểm dịch và theo dõi, cải thiện;

  • trao đổi nhanh của các cơ sở hiện hành trong các trung tâm kiểm dịch chuyên dụng, các bệnh viện COVID-19 và các phòng thí nghiệm kiểm thử phản ứng chuỗi polymerase;

  • Truyền thông điệp rõ ràng cho nhân dân về quy tắc ứng xử phải tuân thủ, được một nhà chức trách duy nhất truyền đạt, tổng giám đốc các dịch vụ sức khỏe;

  • các chương trình thường xuyên quảng bá qua các phương tiện số và xã hội làm cho mọi người nhận thức được và chấp nhận các biện pháp bảo vệ họ cần áp dụng ở mức cá nhân và xã hội trong các pha khóa lại và mở lại; ví dụ, tất cả các hộ gia đình đã được cung cấp các hạng mục cơ bản trong lúc khóa và phục hồi. Các sinh viên Sri Lanka và người lao động nhập cư đã được lưu trú thoải mái trong các trung tâm cách ly.

Nguồn: Prof. Sirimali Fernando, Professor and Chair of Microbiology, Faculty of Medical Sciences, University of Sri Jayewardenapura, Gangodawila, Sri Lanka

 

Hộp 3: Jamaica: dải tinh thông rộng lớn

Chính phủ đã không phát triển cơ chế thường trực cung cấp tư vấn khoa học, mặc dù nó đánh giá cao vai trò của khoa học trong việc cung cấp thông tin chính sách. Thay vào đó, nó đã chọn sử dụng một tiếp cận phù hợp mục đích, hiện đại, ở đó chính phủ, các chính trị gia và các nhân viên kỹ thuật các bộ xác định các cơ sở và cá nhân các chuyên gia từ giới hàn lâm, khu vực doanh nghiệp và xã hội dân sự để hình thành các nhóm đa ngành, đa cơ quan, với sự tham gia của các tổ chức quốc tế. Các nhóm này do một nhà kỹ trị của chính phủ và một chuyên gia độc lập đồng chủ trì.

Mô hình này đã được sử dụng trong đại dịch COVID-19. Thay vì bổ nhiệm một người lãnh đạo COVID, chính phủ đã sử dụng một khung Nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia Cơ bản có sẵn rồi một thập kỷ trước để đáp lại các cuộc khủng hoảng như vậy và đã bổ nhiệm các nhà kỹ trị của chính phủ, các nhân viên hàn lâm, các chủ doanh nghiệp và các tác nhân dân sự để đóng vai trò kỹ thuật đặc thù. Nhóm đó đã đưa ra một tóm tắt 2 lần trong tuần cho Nội các và một tiểu ban của Quốc hội được thành lập đặc biệt để nhận lấy vai trò giám sát này.

Ba yếu tố được đưa ra như là đã đóng góp cho thành công tương đối của Jamaica trong quản lý các giai đoạn sớm của đại dịch. Thứ nhất, đã có một cảm giác rộng rãi của công chúng về tính hợp pháp đối với chính phủ thời đó, giống như nó vẫn tồn tại trong một hệ thống bầu cử. Thứ nhì, khung có sẵn trước đó rồi đã công nhận vai trò sống còn của bằng chứng khoa học trong việc hình thành chính. Yếu tố thứ ba từng là cam kết mạnh mẽ cần thiết ở quốc gia ít tài nguyên để thu thập, giám tuyển, phân tích, giải nghĩa, chia sẻ và sử dụng một dải dữ liệu. Điều này phần lớn từng là một bài tập thủ công được thực hiện trong các kho chứa chỉ để tạo ra thông tin cần thiết nhờ nỗ lực của Herculean.

Nguồn: Prof. Terrence Forrester, Professor of Experimental Medicine and Chief Scientist at UWI Solutions for Developing Countries at the University of the West Indies (UWI)


Khoa học, chính sách và các giá trị

Là quan trọng để thừa nhận khoa học có các giá trị được gắn liền. Chúng bao gồm sự cân nhắc các câu hỏi nào phải nghiên cứu, làm thế nào nghiên cứu chúng và sử dụng cái gì để tạo ra thông tin thu được. Tuy nhiên, phương pháp khoa học cũng đòi hỏi các nhà khoa học đặt sang một bên các định kiến và các giá trị cá nhân của họ khi thu thập và phân tích các dữ liệu thô, vì các định kiến và giá trị đó có thể làm méo mó các quan sát thực tế hoặc tổng hợp bằng chứng, điều cơ bản của khoa học tốt.

Ngược lại, việc ra chính sách phần lớn là một quá trình dựa vào giá trị của việc chọn giữa các lựa chọn ảnh hưởng tới các bên liên quan khác nhau theo các cách thức khác nhau. Thậm chí một quyết định như liệu có thực hiện bất kỳ hành động chính sách nào hay không là một quyết định đầy giá trị. Các giá trị được đưa ra bao gồm lý tưởng chính trị, thế giới quan, tình hình tài khóa, dư luận và các vấn đề về uy tín.

Hơn nữa, các đánh giá rủi ro khoa học là khác nhau với các nhận thức về rủi ro đối với các công dân, điều sau trước hết đang được các định kiến về nhận thức xác định. Đổi lại, các chính trị gia sẽ xem xét một cách có hiểu biết các vấn đề qua lăng kính rủi ro chính trị của họ. Việc dịch thuật và truyền đạt giữa 2 khía cạnh đó, vì thế là nhạy cảm và là một chức năng ranh giới đang tiến hóa.

Rủi ro suy diễn có thể ảnh hưởng tới quy trình chính sách

Từ quan điểm tư vấn khoa học, giá trị quan trọng nhất liên quan tới sự đầy đủ và chất lượng của bằng chứng trong đó các suy diễn được các nhà khoa học và những người làm chính sách làm giống như trong việc đạt được các kết luận có thể tác động tới quy trình chính sách. Dù vậy, các lý lẽ chuẩn mực có thể gợi ý rằng hiệu quả và kịp thời đưa kiến thức đúng vào các quyết định chính sách sẽ dẫn tới việc tạo ra chính sách tốt hơn.

Nhận thức khác nhau về sự không chắc chắn của khoa học và chính sách

Tuy nhiên, vì nhận thức khác nhau về sự không chắc chắn đối với khoa học và làm chính sách, sự cộng tác giữa 2 nhóm đó không luôn suôn sẻ. Trong khi kiến thức khoa học luôn mang tính tạm thời và chấp nhận những bất ổn về mặt nhận thức và phương pháp luận, các nhà hoạch định chính sách cần phải hành động, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng. Các chính trị gia thích chắc chắn hơn trong truyền thông của họ.

Sự hiểu biết có tính trái chiều nhau này về chất lượng của bằng chứng có thể làm cho sự cộng tác giữa các cộng đồng khoa học và làm chính sách trở thành một công việc thách thức. Do đó, tại sao người ta không thể nhấn mạnh quá mức vai trò quan trọng của việc trao đổi thông tin hiệu quả giữa các cộng đồng chính sách và khoa học trong bối cảnh như vậy.

Phát triển hệ sinh thái tư vấn trong trường hợp khẩn cấp

Không mô hình duy nhất nào cho hệ sinh thái tư vấn khoa học đã thể hiện được tính hiệu quả của nó trong tất cả các tình huống. Chúng trải từ việc cung cấp tư vấn trong trường hợp khẩn cấp cho tới tư vấn và làm việc với các vấn đề về tính bền vững dài hạn và phát triển con người. Ngay cả trong các hệ thống chín muồi rồi của nhiều quốc gia có thu nhập cao, nhiều thành phần cần có để tạo ra hệ sinh thái tư vấn khoa học hoàn chỉnh, dù, trong một vài trường hợp, đại dịch đã bộc lộ các vấn đề về tính hiệu quả.

Sự nổi lên của đại dịch COVID-19 giúp nhắc nhở rõ ràng về tầm quan trọng sống còn của việc thiết lập các cơ sở, các quy trình và các hướng dẫn tư vấn khoa học chính quy, hoạt động tốt ở các quốc gia thu nhập thấp và trung bình và, quả thực, cả ở nhiều quốc gia có thu nhập cao hơn.

Ví dụ, ở Ethiopia trong vòng 2 năm qua, các chính trị gia và những người làm chính sách đã yêu cầu công khai hỗ trợ từ cộng đồng khoa học trong việc cải cách các chính sách hiện hành và phát triển các chính sách mới - một động thái chưa từng có. Tuy nhiên, cam kết đầy hứa hẹn giữa các nhà khoa học và những người làm chính sách được lưu ý trong giai đoạn cải cách xã hội và chính trị này vẫn còn thiếu sự thể chế hóa ở Ethiopia, phần lớn là đặc biệt. Điều này cũng là đúng ở Sri Lanka (Hộp 2) và Jamaica (Hộp 3).

Sự đáp lại COVID-19 khá thành công từ vài quốc gia châu Phi, bao gồm Ethiopia và Ghana (Hộp 4), làm sáng tỏ tầm quan trọng của việc xây dựng dựa vào kinh nghiệm trước đó trong xử lý đại dịch, để đảm bảo chuẩn bị sẵn sàng và truyền thông hiệu quả. Đặc biệt, việc xử lý hiệu quả khủng hoảng không phải là vấn đề về phương tiện tài chính hơn là các lựa chọn truyền thông hiệu quả được bằng chứng thông báo tốt.

Thậm chí có thể đi xa hơn và kết luận từ kinh nghiệm của vài quốc gia có thu nhập thấp hơn khi họ đã làm khá tốt về kiểm soát dịch bệnh trong đại dịch COVID-193 mà dường như không có mối tương quan nào giữa phản ứng về sức khỏe cộng đồng và cường độ nghiên cứu của quốc gia của họ. Quả thực, như các ví dụ trong tiểu luận này thể hiện, lãnh đạo chính trị ở nhiều quốc gia thu nhập thấp hơn đã nhanh chóng tiếp cận và hiệu quả tới cộng đồng khoa học của họ.

Hộp 4: Ghana: đối tác công - tư đã thúc đẩy sự tự lực

Với việc đóng cửa nhiều biên giới khắp trên thế giới, Ghana đã phải hướng vào trong để sống sót và duy trì bền vững. Đối mặt với dây chuyền cung ứng đứt gẫy và các khó khăn trong nhập khẩu hàng hóa, sự khéo léo của địa phương đã chứng minh là sống còn. Các cơ sở và các trường đại học nghiên cứu đã cung cấp nghiên cứu trình tự gen và đã hỗ trợ sản xuất chất khử trùng, bộ xét nghiệm, máy thở, phần mềm theo dõi, v.v. Các cá nhân, các cơ sở của nhà nước và các tổ chức doanh nghiệp đã đưa ra các cách thức sáng tạo để sản xuất thiết bị bảo vệ cá nhân, bồn rửa tay sử dụng năng lượng mặt trời và bồn rửa tay không tiếp xúc, máy phun chất khử trùng toàn thân dạng không cửa ngăn, v.v.

Một nhóm về COVID-19 quốc gia với nền tảng mạnh về sức khỏe cộng đồng đã được thành lập để tư vấn cho tổng thống. Nhóm gồm Cố vấn về Sức khỏe của Phủ tổng thống, cựu Phó Tổng Giám đốc của Tổ chức Y tế Thế giới và Thứ trưởng Bộ Y tế.

Chiến lược được Ghana áp dụng đã tập trung vào thông tin được cập nhật thường xuyên, bao gồm các bài phát biểu định kỳ của tổng thống và một chiến dịch giáo dục công cộng lớn. Bộ Y tế và các cơ quan Dịch vụ Y tế Ghana tiếp tục sử dụng các website và các nền tảng truyền thông của họ để giáo dục công chúng. Các tư liệu sư phạm đã được dịch sang 8 ngôn ngữ địa phương ngay đầu cuộc chiến để thúc đẩy sử dụng thông tin.

Vào thời điểm 2 ca nhiễm COVID-19 đầu tiên đã được tìm thấy hôm 12/03/2020, đã có rồi vài giáo dục công chúng về các thủ tục an toàn, cũng như việc kiểm tra thân nhiệt cho những người đi du lịch xuyên biên giới.

Cộng tác giữa các khu vực công và tư đã làm giảm nhẹ tác động của đại dịch. Quỹ Tin cậy Quốc gia Ghana được tổng thống thiết lập vào năm 2020 để làm giảm bớt gánh nặng lên những người nghèo đã thu hút sự đóng góp tiền mặt và hiện vật. Vài tổ chức dựa vào đức tin và các cá nhân cũng đã chào các tiện ích cho chính phủ để chuyển đổi thành các trung tâm điều trị.

Một trung tâm điều trị mới các bệnh truyền nhiễm đã được xây dựng giữa năm 2020 thông qua quan hệ đối tác công - tư. Trung tâm 100 giường bệnh này đã được Lực lượng Vũ trang Ghana xây dựng ở Bệnh viện Thành phố Ga East ở Accra. Hiệp hội Y học Ghana đảm bảo rằng trung tâm có thể phù hợp với mục đích; nó có phòng thí nghiệm y sinh, nhà thuốc, sân phục hồi và 21 giường chăm sóc đặc biệt, trong số các tiện ích khác. Dự án này đã được Quỹ của Khu vực Tư nhân chống COVID-19 của Ghana phối hợp với Bộ Y tế triển khai.

Đến tháng 11 năm 2020, Ghana chỉ có hơn 50.000 người bị nhiễm và tỷ lệ tử vong thấp là 1,08 trên 100.000 dân.

Nguồn: Prof. Marian Asantewah Nkansah, Department of Chemistry. Kwame Nkrumah University of Science and Technology, Kumasi, Ghana


Tư vấn khoa học đặc biệt có những hạn chế

Để tư vấn khoa học hiệu quả, có ít nhất 2 cân nhắc cơ bản trước đó. Trước nhất, chính phủ và cộng đồng chính sách phải chấp nhận giá trị tư vấn khoa học xuyên khắp một dải rộng lớn các vấn đề.

Tiêu chí đầu tiên này không được đánh giá cao ở nhiều quốc gia thiếu các cơ chế tư vấn chính quy cơ bản. Một hạn chế nữa của các cơ chế đặc biệt là chúng có thể có định kiến về kiến thức được trình bày, nếu các chuyên gia được tư vấn thiếu các kỹ năng cần thiết cho các cơ chế tư vấn.

Thứ hai, phải có cộng đồng khoa học và hàn lâm địa phương có thể đóng góp cho tư vấn khoa học; điều này được chứng minh bằng phản ứng tích hợp của người Ghana đối với COVID-19 (Hộp 4). Điều này không ngụ ý chỉ kiến thức về giá trị được cung cấp ở địa phương. Quả thực, hầu hết kiến thức khoa học chắc chắn có nguồn gốc xuyên quốc gia nhưng kiến thức hiện có, tuy nhiên, phải được giải thích trong bối cảnh địa phương. Các cơ sở như các trường đại học là quan trọng cho mô hình phát triển này. Chúng phải có các kỹ năng cần thiết để truyền đạt kiến thức tới cộng đồng chính sách và quy trình chính trị phải có thiện chí kết hợp kiến thức đó vào việc ra quyết định của mình. Công chúng sẽ cảm thấy tin tưởng khi điều này được truyền đạt tới họ rằng chính sách được bằng chứng tạo thành (Hộp 2). Để truyền đạt bằng chứng khoa học và đảm bảo các khuyến nghị cả cho những người làm chính sách và công chúng rộng lớn hơn, các nhà tư vấn phải minh bạch về các nguồn bằng chứng này để thu hút sự tin tưởng.

Dù các cơ chế tư vấn khoa học đặc biệt có thể làm việc với một vấn đề nhất định, chúng không tạo ra giá trị trong dài hạn. Chúng tôi gợi ý rằng các cơ chế tư vấn khoa học được thể chế hóa. Các cơ chế đơn giản nhưng hiệu quả đã được phát triển và thể chế hóa ở các quốc gia như New Zealand (Hộp 5), dù là việc định hình các hệ thống tư vấn như vậy có thể khác nhau, tùy thuộc vào các bối cảnh của hiến pháp, văn hóa và lịch sử.

Dù việc thể chế hóa quy trình tư vấn khoa học rõ ràng có những lợi ích lớn về lâu dài và cho phép lập kế hoạch trước, nó có nguy cơ chính trị hóa và cạnh tranh thể chế. Cần phải có những bảo vệ cần thiết để đảm bảo sự độc lập và liêm chính của tư vấn được đưa ra. Giới hàn lâm đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra trách nhiệm giải trình, miễn là bản thân nó được hưởng độc lập bền vững.

Tư vấn khoa học phải không có giới hạn đối với các khủng hoảng

Tư vấn khoa học hiệu quả và tin cậy không đơn giản là chức năng của các liên kết với những người làm chính sách. Nó cũng liên quan tới thảo luận hiệu quả với các bên liên quan và công chúng. Với sự hiện diện của thông tin sai lệch, thách thức đang gia tăng trên toàn cầu, truyền thông trung thực tin cậy cho tất cả các công dân là quan trọng sống còn.

Vai trò của tư vấn khoa học có cấu trúc phải không bị giới hạn cho các trường hợp khẩn cấp. Phần nhiều của việc ra quyết định của chính phủ trong các lĩnh vực trải từ giáo dục tới giao thông, từ năng lượng tới nông nghiệp, từ chính sách đổi mới sáng tạo tới phúc lợi xã hội, có thể được tổng hợp và môi giới bằng chứng có kỹ năng đúng hỗ trợ. Các vấn đề như liệu có áp dụng các công nghệ mới như biến đổi gen hay làm thế nào để sử dụng trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn để cải thiện hiệu suất sẽ được đề cập tới tốt nhất khi khoa học được xem xét đúng mức. Biến đổi khí hậu do con người gây ra tạo ra các thách thức đặc biệt đòi hỏi đầu vào từ cả các khoa học tự nhiên và xã hội. Với nhịp độ nhanh của phát triển công nghệ, các chính phủ sẽ đối mặt với nhiều kỳ vọng và lựa chọn phải đưa ra trên cơ sở thường xuyên. Tư vấn khoa học tốt, toàn diện có thể làm nhiều điều để hỗ trợ các chính phủ trong các bối cảnh như vậy.

Hộp 5: New Zealand đã xử lý để loại bỏ virus

New Zealand đã làm tốt việc xử lý đại dịch từ khi phát hiện trường hợp đầu tiên vào ngày 28/01/2020. Dù còn gây tranh cãi, chìa khóa cho thành công của New Zealand từng là sự xác định có đầy đủ thông tin rõ ràng về mặt khoa học từ khá sớm rằng loại bỏ thay vì áp chế là một lựa chọn khả thi, ngay cả khi chính sách này cần thời gian để đưa ra. Loại bỏ là lựa chọn khả thi, vì New Zealand được tạo thành từ nhóm các đảo.

Sự đóng cửa biên giới nghiêm ngặt đã được đưa ra vào ngày 20/03/2020, kèm theo giai đoạn 2 tuần kiểm dịch khi quay về đối với người New Zealand, lần vết các liên hệ tăng cường và khóa lại cả quốc gia trong 7 tuần.

Virus đã được xem là đã bị loại bỏ sau hơn 100 ngày không có bất kỳ ca lây nhiễm nào trong cộng đồng. Một đợt bùng phát nhỏ sau đó đã được dập tắt bằng cách đóng cửa thành phố lớn nhất của đất nước, Auckland, trong vài tuần. Một nhúm các trường hợp cách ly đã được xác định nhanh chóng và được quản lý qua kiểm tra và lần vết các liên hệ được phát triển tốt.

Người dân đã rất tuân thủ và hợp tác, được trấn an bởi thông tin liên lạc rõ ràng về các mức độ khác nhau về hạn chế và khóa lại xã hội. Thủ tướng đã sử dụng những điều tương tự trong thể thao để khuyến khích một tham vọng thống nhất. Bà đã gọi, ví dụ, dân số New Zealand là ‘một đội với 5 triệu người’. Cả thủ tướng và tổng giám đốc về y tế đã tổ chức các cuộc họp báo hàng ngày trong nhiều tháng. Chất lượng truyền thông khoa học của các nhà khoa học cả trong và ngoài hệ thống tư vấn từng là tấm gương.

Một khía cạnh mới của phản ứng là việc thành lập một ủy ban do quốc hội lựa chọn và do lãnh đạo phe đối lập đứng đầu để giám sát phản ứng. Các cuộc thảo luận của ủy ban được truyền hình trực tiếp trên web, qua đó cung cấp cho công chúng những hiểu biết sâu sắc về sự phức tạp của phản ứng quốc gia. Điều này phục vụ để cải thiện sự minh bạch của việc ra quyết định và xây dựng lòng tin trong hệ thống.

Có nhiều sự tôn trọng đối với khoa học ở New Zealand, nơi có hệ thống tư vấn khoa học được phát triển tốt. Hệ thống ứng phó khẩn cấp của quốc gia phần lớn đã được xây dựng để xử lý các thảm họa tự nhiên. Nó dựa vào một ủy ban điều phối do Chánh văn phòng của Thủ tướng Chính phủ và Nội các làm chủ tịch. Cố vấn Trưởng về Khoa học cho Thủ tướng có trong ủy ban này. Bộ có vai trò lãnh đạo trong ứng phó khẩn cấp với đại dịch COVID-19 là Bộ Y tế. Bộ này đưa ra mô hình hóa thích hợp và chuyên môn về dịch tễ học.

Toàn bộ phản ứng của chính phủ bao gồm làm việc với các viện nghiên cứu, trường đại học và khu vực tư nhân để xây dựng các năng lực kiểm thử và cần thiết khác.

Thách thức bây giờ sẽ là phán xét khi nào và mở lại biên giới như thế nào, việc đóng cửa nó hơn 8 tháng qua đã có các tác động đáng kể đối với nhiều gia đình và các thành phần kinh tế.

Nguồn: Prof. Peter Gluckman, former Chief Science Advisor to the Prime Minister of New Zealand

 

Hiện hành, các hệ thống tư vấn đang ở các giai đoạn cao khác nhau của sự phát triển khắp các quốc gia có thu nhập cao, trung bình và thấp. Chúng không thể là hiệu quả hoặc đáp ứng mục tiêu nếu chúng không có khả năng thể hiện và tiêu hóa bằng chứng một cách độc lập khỏi sự can thiệp chính trị. Điều này đòi hỏi sự chín muồi trong các cộng đồng chính trị và chính sách.

Rốt cuộc, tùy thuộc vào chính phủ để đưa ra các quyết định có sự kết hợp dải rộng lớn các đầu vào. Tuy nhiên, các quyết định đó sẽ có khả năng lớn hơn đáp ứng các mục tiêu của chính phủ khi có được bằng chứng thông tin đầy đủ và đúng.

Không có mô hình duy nhất nào để sao chép các kinh nghiệm gần đây được nhấn mạnh trong các ví dụ trên các trang đó gợi ý rằng các quốc gia thu nhập thấp và trung bình đang tìm kiếm dải các tiếp cận để đáp ứng các nhu cầu cấp bách của họ theo các cách thức hiệu quả.

Thách thức sẽ là phải học từ các bài học đó, để xác định cách để hệ sinh thái tư vấn khoa học và các cơ sở có liên quan có thể tiến hóa ở từng quốc gia.
 

  • Ngài Peter Gluckman (b. 1949: New Zealand) là Chủ tịch Mạng Quốc tế về Tư vấn Khoa học Chính phủ và Chủ tịch được bầu của Hội đồng Khoa học Quốc tế. Ông là Giáo sư được kính trọng, Koi Tū của Trung tâm vì Tương lai có Đầy đủ thông tin ở Đại học Auckand và là cựu Trưởng Cố vấn Khoa học cho Thủ tướng New Zealand.

  • Binyam Sisay Mendisu (b. 1979: Ethiopia) là cán bộ chương trình ở Viện Quốc tế của UNESCO về Xây dựng Năng lực ở châu Phi (Ethiopia). Ông là Phó Giáo sư ở Khoa Ngôn ngữ học ở Đại học Addis Ababa làm việc bán thời gian. Ông cũng là thành viên Viện hàn lâm Thanh niên Toàn cầu và là đồng lãnh đạo Nhóm Làm việc Tư vấn Khoa học của nó.

CÁC CHÚ GIẢI

1. Xem: http://research.assaf.org.za/handle/20.500.11911/81

2. Giáo sư Diallo cũng là thành viên ban điều hành của hiến chương châu Phi của Mạng Quốc tế về Tư vấn Khoa học Chính phủ (NIGSA).

3. Xem: https://www.ingsa.org/covid/policymaking-tracker-landing/


Thừa nhận:

Dịch từ: UNESCO (2021) Báo cáo Khoa học của UNESCO: Chạy đua với thời gian vì sự phát triển thông minh hơn. S. Schneegans, T. Straza and J. Lewis (eds). UNESCO xuất bản: Paris. Giấy phép nội dung CC BY-SA 3.0 IGO.


Quay về danh sách các tiểu luận và các đoạn trích được đăng!

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

GIÁO DỤC MỞ - TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ: ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN

Trang Web này được thành lập theo Quyết định số 142/QĐ-HH do Chủ tịch Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam – AVU&C (Association of Vietnam Universities and Colleges), GS.TS. Trần Hồng Quân ký ngày 16/09/2019, ngay trước thềm của Hội thảo ‘Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở’ do 5...

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập60
  • Máy chủ tìm kiếm18
  • Khách viếng thăm42
  • Hôm nay11,828
  • Tháng hiện tại163,628
  • Tổng lượt truy cập6,798,494
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây