‘Khám phá sơ bộ về mối quan hệ giữa OER do sinh viên tạo ra, tính bền vững và thành công của sinh viên’ - bản dịch sang tiếng Việt

Thứ tư - 09/10/2024 19:06
‘Khám phá sơ bộ về mối quan hệ giữa OER do sinh viên tạo ra, tính bền vững và thành công của sinh viên’ - bản dịch sang tiếng Việt

Là bản dịch sang tiếng Việt tài liệu của các tác giả David Wiley, Ashley Webb, Sarah Weston, và DeLaina Tonks có tựa đề ‘Khám phá sơ bộ về mối quan hệ giữa OER do sinh viên tạo ra, tính bền vững và thành công của sinh viên’, được đăng trên tạp chí Đánh giá Nghiên cứu Quốc tế về Học tập Mở và Phân tán; Tập 18, Số 4, tháng 6/2017; giấy phép mở CC BY 4.0 Quốc tế.

Tóm tắt: Bài báo này khám phá mối quan hệ giữa Tài nguyên Giáo dục Mở - OER (TNGDM) do sinh viên tạo ra để các sinh viên khác sử dụng, tính bền vững lâu dài của phong trào hướng tới TNGDM, và sự thành công của các sinh viên sử dụng TNGDM do các sinh viên khác tạo ra như một phần tài liệu của chương trình giảng dạy cốt lõi. Chúng tôi bắt đầu bằng việc cung cấp định nghĩa và bối cảnh lớn hơn để suy nghĩ về khả năng của TNGDM do sinh viên tạo ra. Chúng tôi sau đó mô tả bối cảnh khóa học ở đó TNGDM do sinh viên tạo ra đã dần dần được tích hợp vào một lớp học trên trực tuyến qua vài năm và xem xét tác động của việc giới thiệu này đến việc học của sinh viên.

Sự thành công của Wikipedia như một “nguồn nội dung tuyệt vời” là điều hoàn toàn bất ngờ, ngay cả với những người sáng tạo ra nó. Sau khi chứng kiến bằng chứng về sự tồn tại của việc tạo ra nội dung tuyệt vời do người mới vào nghề tạo ra trong bối cảnh Wikipedia, có lý do để tin rằng những người mới vào nghề (sinh viên) cũng có thể tạo ra nội dung mở tuyệt vời trong bối cảnh giáo dục.

Hilton kết luận rằng việc sử dụng TNGDM không liên quan đến việc giảm khả năng học tập của sinh viên. Đây là một phát hiện cực kỳ quan trọng vì nó có nghĩa là giảng viên áp dụng TNGDM thay cho các tài liệu thương mại truyền thống có thể mong đợi tiết kiệm cho sinh viên của mình một khoản tiền đáng kể mà không gây hại đến việc học tập của sinh viên.

Mặc dù các ví dụ về bài tập có thể tái tạo lại được ở trên rất mạnh mẽ, nhưng chúng mô tả công việc của sinh viên đại học và sau đại học trình độ cao, những người có thể không được mô tả chính xác là người mới vào nghề. Để hiểu rõ hơn câu hỏi về tác động học tập của việc sử dụng TNGDM do những sinh viên khác tạo ra, chúng tôi đã xác định một bối cảnh mà những người sáng tạo là sinh viên có nhiều khả năng là người mới vào nghề thực sự - TNGDM do học sinh trung học tạo ra cho các học sinh trung học khác.”

***

“Theo Bản tóm tắt thống kê của Bộ Giáo dục Mỹ (Bộ Giáo dục, 2016), có hơn 20 triệu sinh viên theo học tại một cơ sở giáo dục sau trung học có cấp bằng tại Mỹ vào mùa thu năm 2014. Giả sử mỗi sinh viên này đăng ký một khóa học ba tín chỉ trong học kỳ đó. Đối với mỗi giờ trong ba giờ mà những sinh viên đó dành trên lớp mỗi tuần, họ có thể phải làm hai giờ bài tập về nhà ngoài giờ học, tổng cộng là sáu giờ bài tập về nhà mỗi tuần trong một khóa học thông thường kéo dài 15 tuần. Nhân tổng cộng 15 tuần với sáu giờ bài tập về nhà mỗi tuần với 20 triệu sinh viên bằng 1.800.000.000 giờ dành cho bài tập về nhà mỗi học kỳ. Vì nhiều sinh viên học nhiều hơn một khóa học mỗi học kỳ, nên ước tính khoảng 2 tỷ giờ mỗi học kỳ dành cho bài tập về nhà là thận trọng nhưng đủ cho mục đích của chúng tôi.

Các bài tập tái tạo lại được: cho sinh viên, bởi sinh viên

Theo Wiley (2013), chúng tôi định nghĩa bài tập dùng một lần là những bài tập mà cả giảng viên và sinh viên đều hiểu rằng cuối cùng sẽ bị vứt bỏ. Bài luận và bài tập thực hành là những ví dụ về bài tập thường nằm trong danh mục này – sinh viên dành nhiều thời gian và năng lượng để làm bài tập này, giảng viên dành nhiều thời gian và năng lượng để chấm điểm bài tập này, sau đó trả lại cho sinh viên và họ đã vứt bỏ. Mặc dù có thể có lợi ích học tập cho sinh viên hoàn thành các bài tập dùng một lần này, nhưng việc vứt bỏ 2 tỷ giờ làm việc mỗi học kỳ có vẻ như là một cơ hội bị bỏ lỡ.”

Giả thiết cũng theo cách tính này, trong khi quy mô sinh viên đại học của Việt Nam, theo số liệu thống kê giáo dục đại học năm học 2021 – 2022 (https://moet.gov.vn/content/tintuc/Lists/News/Attachments/8831/giao-duc-dai-hoc-nam-hoc-2021-2022.pdf), là hơn 2 triệu người, bằng khoảng 1/10 của nước Mỹ, thì ‘việc vứt bỏ 200 triệu giờ làm việc mỗi học kỳ có vẻ như là một cơ hội bị bỏ lỡ’, một cách tương tự!

Tự do tải về bản dịch sang tiếng Việt của tài liệu có 14 trang tại địa chỉ: https://www.dropbox.com/scl/fi/jxe9zwj47q04j4tgaaikw/aupress-admin-03022-22583-2-CE-1-1_Vi-05102024.pdf?rlkey=u0711lkywjlryf8xmrtq9a8x8&st=y3hmg1vx&dl=0

Xem thêm:

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

GIÁO DỤC MỞ - TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ: ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN

Trang Web này được thành lập theo Quyết định số 142/QĐ-HH do Chủ tịch Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam – AVU&C (Association of Vietnam Universities and Colleges), GS.TS. Trần Hồng Quân ký ngày 16/09/2019, ngay trước thềm của Hội thảo ‘Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở’ do 5...

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập48
  • Máy chủ tìm kiếm7
  • Khách viếng thăm41
  • Hôm nay7,264
  • Tháng hiện tại26,764
  • Tổng lượt truy cập6,904,793
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây