Giải pháp chính sách nào để phát triển tài nguyên giáo dục mở trong giáo dục đại học ở Việt Nam

Chủ nhật - 26/12/2021 23:21
Giải pháp chính sách nào để phát triển tài nguyên giáo dục mở trong giáo dục đại học ở Việt Nam

(Bài viết cho Hội thảo khoa học: ‘Giải pháp xây dựng mô hình Tài nguyên Giáo dục Mở trong giáo dục đại học’ do Văn phòng Hội đồng Quốc gia Giáo dục và Phát triển Nhân lực (VPHĐQGGDPTNL) và Tiểu ban Giáo dục Đại học tổ chức ngày 24/12/2021)

 

Tóm tắt: Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở (KN TNGDM) của UNESCO đã được 193 quốc gia thành viên của nó phê chuẩn tháng 11/2019. Khuyến nghị Khoa học Mở (KN KHM) của UNESCO cũng đã được nhất trí thông qua ngày 23/11/2021, biến TNGDM và KHM thành xu thế không thể đảo ngược của thế giới. Cùng lúc, Chương trình Chuyển đổi Số (CĐS) Quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đã được Chính phủ ban hành vào tháng 6/2020, trong đó giáo dục là 1 trong 8 lĩnh vực ưu tiên, đã bắt đầu được khởi động triển khai ở khắp mọi nơi. Làm thế nào để xây dựng chính sách nhằm phát triển TNGDM trong giáo dục đại học ở Việt Nam vừa phù hợp với xu thế không thể đảo ngược về ứng dụng và phát triển TNGDM và KHM của thế giới, vừa phù hợp với Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia của Việt Nam trong những năm tới là nội dung của bài viết này cùng với các gợi ý để đạt được mục tiêu kép đó.

Từ khóa: Tài nguyên Giáo dục Mở (TNGDM); Chuyển đổi Số (CĐS); Khung Năng lực Số (KNLS); Công nghệ Mở; Nền tảng Mở, giấy phép mở, cấp phép mở.

 

A. Đặt vấn đề:

Khuyến nghị Tài nguyên Giáo dục Mở (KN TNGDM) của UNESCO đã được 193 quốc gia thành viên UNESCO thông qua tháng 11/2019[1], đề xuất và chi tiết hóa 5 lĩnh vực hành động để thúc đẩy ứng dụng và phát triển TNGDM trên toàn cầu, một trong số đó là xây dựng chính sách hỗ trợ cho ứng dụng và phát triển TNGDM. Hội nghị Giáo dục Mở toàn cầu[2] năm 2021 trên trực tuyến cũng vừa diễn ra trong 5 ngày từ 27/09/2021 tới 01/10/2021, mỗi ngày tập trung vào 1 trong 5 lĩnh vực hành động được nêu ở trên với nhiều webinar và nhiều bài trình bày tham luận tới từ khắp nơi trên thế giới, để chuẩn bị cho Hội nghị Giáo dục Mở toàn cầu bằng hình thức trực tiếp dự kiến sẽ diễn ra trong các ngày 23-25/05/2022 tại Nantes, nước Pháp, nơi sẽ là một diễn đàn lớn cho cộng đồng giáo dục mở toàn cầu để trực tiếp tham gia cộng tác quốc tế để tiếp tục tiến hành triển khai KN TNGDM của UNESCO. Trong các ngày 9-24/11/2021 đã diễn ra Hội nghị Toàn thể UNESCO lần thứ 41, nơi 193 quốc gia thành viên UNESCO đã nhất trí thông qua Khuyến nghị Khoa học Mở[3] (KN KHM), trong đó tiếp tục nhấn mạnh tới việc triển khai ứng dụng và phát triển TNGDM, với sự khẳng định tầm quan trọng của TNGDM như một thành phần cơ bản và không thể thiếu của KHM, đặc biệt trong và sau giai đoạn của đại dịch COVID-19, đại dịch có tác động sâu và rộng chưa từng thấy tới việc sống, làm việc và học tập của toàn thể nhân loại và có tính bước ngoặt đối với nhu cầu cấp bách phải thay đổi cách thức làm khoa học và giáo dục trên toàn thế giới, và chắc chắn cả ở Việt Nam, theo hướng KHM và Giáo dục Mở, với TNGDM từ lâu đã được thế giới thừa nhận như là nền tảng cơ bản của Giáo dục Mở.

Tại Việt Nam vào thời điểm cuối năm 2021, được biết vài dự thảo Đề án ứng dụng và phát triển TNGDM cũng đang được chuẩn bị, đang ở giai đoạn hoàn thiện để trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt, trong đó có Đề án Xây dựng mô hình nguồn tài nguyên giáo dục mở trong giáo dục đại học. Bên cạnh đó, Chương trình Chuyển đổi Số Quốc gia của Chính phủ Việt Nam đã được ban hành vào tháng 6/2020 với giáo dục là 1 trong 8 lĩnh vực ưu tiên, cũng đang được các cơ quan nhà nước các tỉnh – bộ – ngành, cũng như các doanh nghiệp và xã hội khắp cả nước hưởng ứng và khởi động triển khai nhiệt tình.

Làm thế nào để có được giải pháp chính sách nhằm ứng dụng và phát triển TNGDM trong giáo dục đại học ở Việt Nam vừa phù hợp với xu thế không thể đảo ngược về ứng dụng và phát triển TNGDM và KHM của thế giới, vừa phù hợp với Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia của Việt Nam trong những năm tới là câu hỏi cần thiết có sự thảo luận rộng rãi để đi tới thống nhất câu trả lời vào lúc này.


B. Định nghĩa TNGDM trong KN TNGDM của UNESCO

Khi nói về khái niệm TNGDM, bài viết này ngụ ý nói tới định nghĩa đầy đủ của nó, được nêu trong KN TNGDM của UNESCO bằng 2 đoạn như sau:

  • TNGDM là các tư liệu dạy, học và nghiên cứu ở bất kỳ định dạng và phương tiện nào mà nằm trong phạm vi công cộng hoặc có bản quyền đã được phát hành theo một giấy phép mở, cho phép những người khác không mất chi phí để truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy biến thích nghi và phân phối lại.

  • Giấy phép mở tham chiếu tới giấy phép tôn trọng các quyền sở hữu trí tuệ của người nắm giữ bản quyền và đưa ra sự cho phép trao cho công chúng các quyền để truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy biến thích nghi và phân phối lại các tư liệu giáo dục.

Điều cơ bản là: việc người sử dụng chỉ có khả năng truy cập tự do không mất tiền tới một tài nguyên là quá ít, quá tối thiểu và hoàn toàn không đủ điều kiện để tài nguyên đó được gọi là TNGDM! Đây điển hình của cái gọi là TNGDM RỞM![4]

 

C. Thực trạng TNGDM ở Việt Nam so với chuẩn mực của thế giới

Nội dung này đã được trình bày trong một bài viết khác dành cho một hội thảo khác dự kiến cũng sẽ được tổ chức vào cuối năm 2021. Vì thế nó không được trình bày lại ở đây, mà có ở phần Phụ lục bên dưới của bài viết này.

Dù vậy có thể nêu tóm tắt ngắn gọn ở đây là ở thời điểm hiện tại, hầu như không có TNGDM ở Việt Nam; đặc tính điển hình của cái gọi là “TNGDM” hiện nay ở Việt Nam là nó KHÔNG được cấp phép mở và vì thế người sử dụng KHÔNG được trao quyền trước một cách rõ ràng từ các tác giả và/hoặc những người nắm giữ bản quyền để tùy biến thích nghi/sửa đổi nó theo nhu cầu sử dụng của bản thân mình - điều hoàn toàn không phù hợp với định nghĩa TNGDM trong KN TNGDM của UNESCO được nêu ở trên.

Điều đáng lo ngại hơn, là công nghệ mở hầu như không/chưa hoặc rất ít được sử dụng trong các cơ quan nhà nước và trong ngành giáo dục của Việt Nam hiện nay, đi ngược chiều với xu hướng không thể đảo ngược của TNGDM và KHM trên thế giới.

Điều đáng lo ngại nhất, là rất không dễ để thay đổi văn hóa ‘tiền nào của nấy’ và ‘ăn bánh trả tiền’ mấy ngàn năm lịch sử của Việt Nam, là ngược với văn hóa chia sẻ MỞ các tài nguyên VÔ HÌNH và các mô hình doanh thu kinh điển của thế giới nguồn mở dựa vào dịch vụ thay vì dựa vào sản phẩm của chung cộng đồng của thế giới nguồn mở, tuân theo nguyên lý cộng lực để phát triển với 2 điều kiện cùng song hành: MỞ và VÔ HÌNH, trong khi kết quả của chuyển đổi số chắc chắn sẽ sản xuất ra ngày càng nhiều các dữ liệu số - các tài nguyên VÔ HÌNH. Việc áp dụng các mô hình kinh doanh của thế giới nguồn ĐÓNG dựa vào việc bán sản phẩm cho các tài nguyên VÔ HÌNH dạng số, có thể cản trở và/hoặc gây thất bại cho bất kỳ chính sách và/hoặc kế hoạch chuyển đổi số ở bất kỳ mức độ nào.

 

D. Giải pháp chính sách cho TNGDM nên bám sát KN TNGDM của UNESCO

Khuyến nghị TNGDM của UNESCO cho tất cả 193 quốc gia thành viên của nó là tài liệu vô cùng quan trọng để các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam, bám sát và tùy chỉnh cho phù hợp với bối cảnh cụ thể của quốc gia mình. Sau khi nêu một loạt các lý do, KN đưa ra tên gọi, mô tả và cả phần chi tiết hóa cho 5 mục đích và lĩnh vực hành động. Phần dưới đây sẽ chỉ nêu tên gọi và mô tả cho các mục đích và lĩnh vực hành động đó, ngoại trừ nội dung ‘Phát triển chính sách hỗ trợ’ là có đủ cả tên gọi, mô tả và phần chi tiết hóa của nó:

  1. Xây dựng năng lực: phát triển năng lực của tất cả các bên liên quan chính cho giáo dục để tạo lập, truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy biến thích nghi, và phân phối lại TNGDM, cũng như để sử dụng và áp dụng các giấy phép mở theo cách thức ổn định với pháp luật bản quyền quốc gia và các bổn phận quốc tế;

  2. Phát triển chính sách hỗ trợ: khuyến khích các chính phủ, các nhà chức trách và các cơ sở giáo dục áp dụng thường xuyên khung công việc hỗ trợ cho việc cấp phép mở (Khung Cấp phép Mở) cho các tư liệu giáo dục và nghiên cứu được nhà nước cấp vốn, phát triển các chiến lược để xúc tác cho sử dụng và tùy biến thích nghi TNGDM để hỗ trợ cho giáo dục chất lượng cao, hòa nhập và học tập suốt đời cho tất cả mọi người, được nghiên cứu thích hợp trong lĩnh vực này hỗ trợ;

    1. phát triển và triển khai các chính sách và/hoặc các khung pháp lý mà khuyến khích các tài nguyên giáo dục được phát triển với vốn nhà nước cấp sẽ được cấp phép mở hoặc hiến tặng vào phạm vi công cộng một cách thích hợp, và việc phân bổ các nguồn tài chính và nhân lực cho triển khai và đánh giá các chính sách;

    2. khuyến khích và hỗ trợ các cơ sở phát triển hoặc cập nhật các khung pháp lý hoặc chính sách để khuyến khích các nhà giáo dục và người học tạo lập, truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy biến thích nghi và phân phối lại TNGDM chất lượng theo một cách thức ổn định với pháp luật bản quyền quốc gia và các bổn phận quốc tế; và để phát triển và tích hợp cơ chế đảm bảo chất lượng cho TNGDM trong các chiến lược đảm bảo chất lượng đang có cho các tư liệu dạy và học;

    3. phát triển các cơ chế để tạo lập các cộng đồng thực hành, thúc đẩy phát triển nghề nghiệp giảng viên bằng việc sử dụng TNGDM, tạo lập các mạng chuyên gia về TNGDM và thừa nhận thích đáng sự sáng tạo/tạo lập TNGDM như là thành tích nghề nghiệp hoặc học thuật.

    4. phát triển các cơ chế hỗ trợ và khuyến khích tất cả các bên liên quan để xuất bản các tệp nguồn và TNGDM truy cập được bằng việc sử dụng các định dạng tệp mở tiêu chuẩn trong các kho công cộng;

    5. nhúng các chính sách TNGDM vào các khung chính sách và chiến lược quốc gia và điều chỉnh chúng với các chính sách mở khác và hướng dẫn các nguyên tắc như các nguyên tắc cho Truy cập Mở, Dữ liệu Mở, Phần mềm Nguồn Mở và Khoa học Mở;

    6. đưa TNGDM vào biến đổi giáo dục, tinh chỉnh, làm giàu hoặc cải cách chương trình giảng dạy và tất cả các dạng học tập để khai thác các tiềm năng và các cơ hội của TNGDM, và khuyến khích tích hợp các phương pháp và các dạng đánh giá giảng dạy khác nhau để tạo động lực cho sử dụng, sáng tạo và chia sẻ tích cực TNGDM; và đánh giá tác động của TNGDM lên giáo dục chất lượng, hòa nhập và công bằng;

    7. khuyến khích và hỗ trợ nghiên cứu về TNGDM, thông qua các chương trình nghiên cứu thích hợp, về phát triển, chia sẻ và đánh giá TNGDM, bao gồm cả sự hỗ trợ các công nghệ số (như Trí tuệ Nhân tạo);

    8. phát triển và triển khai các chính sách áp dụng các tiêu chuẩn cao nhất về bảo vệ tính riêng tư và dữ liệu trong khi sản xuất và sử dụng TNGDM, hạ tầng TNGDM và các dịch vụ có liên quan.

  3. Truy cập hiệu quả, hòa nhập và công bằng tới TNGDM chất lượng: hỗ trợ áp dụng các chiến lược và chương trình, bao gồm qua các giải pháp công nghệ thích hợp để đảm bảo TNGDM trong bất kỳ phương tiện nào được chia sẻ ở các định dạng và các tiêu chuẩn mở để tối đa hóa truy cập công bằng, đồng sáng tạo, giám tuyển, và khả năng tìm thấy được, bao gồm cho những người từ các nhóm bị thiệt thòi và những người khuyết tật;

  4. Nuôi dưỡng sự sáng tạo các mô hình bền vững cho TNGDM: hỗ trợ và khuyến khích sáng tạo các mô hình bền vững cho TNGDM ở các mức quốc gia, khu vực và cơ sở, và lên kế hoạch và kiểm thử thí điểm các dạng thức bền vững mới của giáo dục và học tập;

  5. Khai thác và tạo thuận lợi cho hợp tác quốc tế: hỗ trợ hợp tác quốc tế giữa các bên liên quan để tối thiểu hóa đúp bản không cần thiết trong các đầu tư phát triển TNGDM và để phát triển kho toàn cầu các tư liệu giáo dục đa dạng, phù hợp với địa phương, nhạy cảm về giới tính, truy cập được theo nhiều ngôn ngữ và định dạng.

Ngoài 5 mục đích và lĩnh vực hành động nêu trên, KN TNGDM cũng nhắc nhở việc xây dựng cơ chế minh bạch để giám sát, báo cáo và giải quyết các phát sinh.

 

E. Giải pháp chính sách TNGDM nên phù hợp với Chương trình CĐS Quốc gia

Việc xây dựng chính sách TNGDM, một mặt cần dựa vào và tùy chỉnh theo KN TNGDM của UNESCO, mặt khác cũng cần phải đặt vào bối cảnh triển khai chương trình chuyển đổi số quốc gia đang được khởi động triển khai ở khắp cả nước, cả trong khu vực công và tư.

Để hướng dẫn cho các tổ chức khắp cả nước có được những kiến thức cơ bản về chuyển đổi số, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xuất bản tài liệu và website ‘Cẩm nang chuyển đổi số’[5], cùng với tài liệu bài giảng của GS. Hồ Tú Bảo về chuyển đổi số[6], cho thấy những điều cơ bản về chuyển đổi số (CĐS) như sau:

  • Chuyển đổi số có 3 cấp độ: (1) Số hóa thông tin; (2) Khai thác cơ hội số; (3) CĐS. Việc số hóa thông tin sẽ sinh ra dữ liệu dạng số và chúng là các tài nguyên VÔ HÌNH.

  • Có 3 yếu tố quyết định cho sự thành công của CĐS, gồm: (1) Con người; (2) Thể chế; và (3) Công nghệ. Chi tiết hóa 3 yếu tố này dẫn tới 5 yếu tố thành phần dẫn tới thành công của chuyển đổi số gồm:

    • Văn hóa và lãnh đạo với các yếu tố về: giao tiếp; tầm nhìn; trình độ kỹ thuật số; có chiến lược; đổi mới sáng tạo; chấp nhận rủi ro; trọng tài năng; thích nghi.

    • Môi trường pháp lý. Gợi ý chính sách TNGDM phải được lồng ghép trong chính sách chuyển đổi số quốc gia.

    • Hạ tầng số, bao gồm: a) Hạ tầng kỹ thuật; b) Hạ tầng ứng dụng; c) Hạ tầng dữ liệu; d) Hạ tầng pháp lý; và e) Hạ tầng nhân lực. Gợi ý về các hạ tầng khi lựa chọn công nghệ mở để chuyển đổi số ở Việt Nam[7], gồm cả hạ tầng cho TNGDM:

h1 1

Hình 1. Gợi ý xây dựng hạ tầng chuyển đổi số bằng công nghệ mở cho Việt Nam

    • Nguồn lực số. Muốn có nguồn lực số cần dựa vào các khung năng lực số và lồng ghép chúng vào chương trình giảng dạy về Giáo dục Số. Gợi ý Việt Nam nên xây dựng các khung năng lực số dựa vào việc tùy chỉnh các khung năng lực số của châu Âu cùng với việc lập kế hoạch hành động số để đưa các khung đó vào thực tế cuộc sống[8]. Lưu ý là tất cả các khung năng lực số của châu Âu đều nhấn mạnh tới tính mở qua việc thúc đẩy phát triển năng lực TNGDM và cấp phép mở[9].

h2 1

Hình 2. Gợi ý xây dựng các khung năng lực số cho Việt Nam

    • Nền tảng số. Trong tài liệu ‘Cẩm nang chuyển đổi số’, phần ‘Cẩm nang cơ bản’, có câu hỏi: ‘Chuyển đổi số như thế nào?’, ở mục ‘Sử dụng nền tảng để chuyển đổi số như thế nào?’ nêu tầm quan trọng của nền tảng số như sau:

“Sử dụng nền tảng số được xác định là giải pháp đột phá để thúc đẩy chuyển đổi số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả. Nền tảng được tạo ra bởi những doanh nghiệp công nghệ số xuất sắc, cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng ngay dưới dạng dịch vụ thay vì phải tự đầu tư, tự vận hành.”

Đã có những phát biểu định hướng quan trọng của lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông về việc chuyển đổi số bằng công nghệ mở, với các nền tảng mở, như sau:

  • Nhân sự kiện Ngày Công nghệ Mở Việt Nam do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức, 18/11/2020, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã nêu[10]:

“Các quốc gia chỉ có thể có niềm tin này khi công nghệ họ sử dụng là công nghệ mở. Công nghệ mở là để các quốc gia có thể làm chủ công nghệ mà mình sử dụng. Không còn như trước đây, chúng ta mua một ‘Hộp đen’ từ một quốc gia khác và phó mặc số phận của quốc gia mình cho một quốc gia khác. Hiện nay, nhiều quốc gia đã tuyên bố chỉ mua công nghệ khi công nghệ là mở, nhất là khi các công nghệ đó dùng để xây dựng các hạ tầng nền tảng quốc gia… Việc lựa chọn phát triển công nghệ mở, lựa chọn phát triển phần mềm nguồn mở, lựa chọn mở dữ liệu để các cá nhân, doanh nghiệp tham gia sáng tạo giá trị mới là định hướng của chúng ta.”

  • Nhân sự kiện Hội thảo “Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo” do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức[11], 09/12/2020, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã nêu:

“Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, ngành Giáo dục hiện còn “thiếu một công cụ thực thi hiệu quả”, đó chính là các nền tảng số. Đây phải là nền tảng mở, để liên tục được cập nhật và tốt lên từng ngày.”

Các trính dẫn ở trên cho thấy Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng nhấn mạnh tới 2 từ khóa: (1) Công nghệ Mở và/hoặc Phát triển Công nghệ Mở; và (2) Nền tảng Mở. Dưới đây giải thích các từ khóa đó cùng việc giải thích sơ bộ các khái niệm có liên quan tới chúng.

Phát triển Công nghệ Mở

Nghiên cứu phát triển công nghệ mở đã được quân đội Mỹ tiến hành từ những năm đầu thế kỷ 21 và đã đưa ra các thành phần của Công nghệ Mở[12] gồm:

  1. Tiêu chuẩn và giao diện mở. Một tiêu chuẩn mở là một tiêu chuẩn không được cấm việc triển khai tuân thủ trong phần mềm nguồn mở[13]. Một giao diện mở, ví dụ như, Open API (Open Application Programming Interface) là giao diện lập trình ứng dụng nguồn mở mà bạn có thể truy cập bằng giao thức siêu văn bản HTTP[14].

  2. Phần mềm nguồn mở[15] và thiết kế mở[16];

  3. Công cụ trực tuyến cộng tác và phân tán;

  4. Sự lanh lẹ về công nghệ;

Những bài học quân đội Mỹ học được và các thực tiễn tốt nhất cho các phần mềm quân sự bằng việc phát triển công nghệ mở khẳng định 2 loại phần mềm do cộng đồng (chứ không phải công ty) duy trì[17] là tốt nhất cho các phần mềm quân sự, đó là: (1) Phần mềm nguồn mở dùng được ngay trong chính phủ (OpenGOTS - Open Government Off-the-Self); và (2) Phần mềm nguồn mở được cộng đồng duy trì (Community Maintained Open Source Software).

h3 1

Hình 3. Chỉ có 2 loại phần mềm thuộc về Phát triển Công nghệ Mở

Tài liệu cũng đưa ra 15 yếu tố quyết định cho sự thành công trong phát triển công nghệ mở, 2 yếu tố đầu tiên trong số đó là: (1) Cộng đồng trước, công nghệ sau; (2) Mở là mặc định, đóng chỉ khi cần[18].

Vì cộng đồng[19], chứ không phải công ty, mới là yếu tố chính để phát triển thành công bất kỳ phần mềm nguồn mở nào, nên việc xây dựng các cộng đồng nguồn mở có vai trò trung tâm trong việc phát triển phần mềm nguồn mở cũng như phát triển công nghệ mở. Lý lẽ đằng sau việc này là vì ngày nay, phần mềm được sử dụng để chế tạo và điều khiển vũ khí, nó không thể bị phụ thuộc vào bất kỳ công ty/tập đoàn nào; vì việc thắng hay bại khi có xung đột hay chiến tranh không thể phụ thuộc vào cái gật hay lắc đầu của ông giám đốc công ty/tập đoàn bất kỳ nào được.

Nền tảng Mở

Nền tảng Mở được nêu ở đây ngụ ý nền tảng số mở hay nền tảng kỹ thuật số mở. Điều quan trọng nhất của một nền tảng mở là nó được chuẩn hóa dựa vào các tiêu chuẩn mở để cho phép mọi công ty với mọi công nghệ tham gia phát triển các ứng dụng/dịch vụ trên nền tảng mở đó, loại bỏ hoàn toàn việc người sử dụng bị phụ thuộc và/hoặc bị khóa trói (Lock-in) vào một nhà cung cấp độc quyền duy nhất, bất kể nhà cung cấp đó mạnh tới mức độ nào.

Không phải bất kỳ phần mềm nào được tạo ra cũng có thể gắn nhãn ‘Nền tảng’ và càng không phải bất kỳ nền tảng nào cũng có thể gắn nhãn ‘Nền tảng Mở’!

Các thành phần của một nền tảng mở[20], ví dụ, bao gồm:

  1. Dựa vào các tiêu chuẩn mở. Triển khai cần dựa vào các tiêu chuẩn mở. Bất kỳ bên có thiện chí nào cũng cần có khả năng sử dụng các tiêu chuẩn đó tự do không mất tiền để xây dựng sự cài đặt độc lập, tuân thủ nền tảng hoàn chỉnh đó;

  2. Các mô hình thông tin chung được chia sẻ. Cần có một tập hợp các mô hình thông tin chung được tất cả các cài đặt của nền tảng mở đó sử dụng, độc lập với bất kỳ triển khai kỹ thuật nào.

  3. Hỗ trợ tính khả chuyển ứng dụng. Các ứng dụng được viết để chạy trên một triển khai nền tảng cần có khả năng chạy bình thường hoặc không thay đổi trên một nền tảng khác đã được phát triển một cách độc lập.

  4. Thành liên đoàn được. Nó cần có khả năng để kết nối bất kỳ triển khai nào của nền tảng mở đó tới tất cả các triển khai khác đã được phát triển độc lập, theo một cấu trúc liên đoàn, cho phép chia sẻ thông tin và các tiến trình đúng thích hợp giữa chúng;

  5. Trung lập với nhà cung cấp và công nghệ. Các tiêu chuẩn cần không bị phụ thuộc vào các công nghệ đặc thù nào hoặc không đòi hỏi các thành phần từ các nhà cung cấp cụ thể nào. Bất kỳ ai xây dựng một triển khai nền tảng mở cũng có thể chọn sử dụng bất kỳ công nghệ sẵn sàng nào và có thể chọn bổ sung hoặc loại bỏ các thành phần sở hữu độc quyền.

  6. Hỗ trợ dữ liệu mở. Dữ liệu cần được mở như cần thiết (tuân thủ thực hành quản lý thông tin tốt) trong một định dạng mở, chia sẻ được, tính toán được gần với thời gian thực. Những người triển khai có thể chọn sử dụng định dạng bẩm sinh này ở lớp thường trực (lưu trữ) của chúng của bản thân nền tảng mở đó hoặc đáp ứng yêu cầu bằng việc sử dụng ánh xạ và chuyển đổi từ vài định dạng khác, dù chúng là mở hay sở hữu độc quyền.

  7. Cung cấp các giao diện lập trình ứng dụng – API (Application Programming Interface) mở. Đặc tả kỹ thuật đầy đủ của các API (phương tiện theo đó các ứng dụng được kết nối tới nền tảng đó) cần là tự do và sẵn sàng.

  8. Tính tương hợp (Interoperability). Nền tảng cần hỗ trợ các nguyên tắc tương hợp. Nền tảng và các thành phần của nó có khả năng trao đổi thông tin với (các) nền tảng/thành phần của (các) nền tảng khác và sử dụng thông tin đã được trao đổi đó một cách suôn sẻ, hiệu quả.

Việc xây dựng nền tảng mở cho các TNGDM còn là yêu cầu tiên quyết để chúng không bị khóa trói và/hoặc bị bắt làm con tin trong một hệ thống đóng, bị phụ thuộc vào một (vài) nhà cung cấp độc quyền duy nhất nào, điều sẽ hủy hoại tính MỞ của chính các TNGDM đó.

Bên cạnh đó, việc xây dựng nền tảng mở cho TNGDM là với mục đích để nhiều hoặc tất cả các cơ sở giáo dục dùng chung nó trên cơ sở cùng chia sẻ tài nguyên kiến thức, nhân lực và vật lực thì mới hiệu quả, hoàn toàn không phải là công việc để từng cơ sở giáo dục xây dựng nó cho riêng mình từ đầu chí cuối - một cách làm rất không hiệu quả về chi phí nguồn lực.

 

F. Kết luận và các gợi ý

Ứng dụng và phát triển TNGDM ở Việt Nam là không dễ, nếu không nói là rất khó, cần có quyết tâm chính trị ở mức càng cao càng tốt. Thực trạng của Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, văn hóa của người Việt Nam vài ngàn năm lịch sử gắn với các tài nguyên hữu hình, trái ngược với nguyên lý cộng lực để phát triển, khi mà nguyên lý này dựa vào việc chia sẻ MỞ các tài nguyên VÔ HÌNH là kết quả của quá trình CĐS. Một thực tế khác là khu vực giáo dục và khu vực nhà nước, từ trước tới nay, hầu như không có thói quen sử dụng các thành phần của công nghệ mở trong hoạt động thường ngày của mình, điều có lẽ sẽ làm khó thêm cho việc ứng dụng và phát triển TNGDM ở Việt Nam.

Việc xây dựng chính sách TNGDM cho giáo dục đại học là cần thiết và cấp bách, để giáo dục Việt Nam không đi chệch hướng hoặc ngược hướng với xu thế không thể đảo ngược của TNGDM và KHM của thể giới, gây cản trở và kéo lùi sự phát triển của quốc gia. Vì vậy, cần bám sát 5 lĩnh vực hành động được nêu trong KN TNGDM, bao gồm cả các nội dung được chi tiết hóa của chúng, để xem xét, tùy chỉnh, và lựa chọn khi xây dựng chính sách TNGDM cho giáo dục đại học, hay bất kỳ mức giáo dục nào khác của Việt Nam.

Ưu tiên cao nhất trong xây dựng chính sách TNGDM ở thời điểm hiện tại là cần có chính sách cấp phép mở ở mức quốc gia, như với các giấy phép Creative Commons, cho các tài nguyên để chúng không phải là các TNGDM RỞM, gây hại cho người sử dụng, gây hại cho uy tín của cả cá nhân và tổ chức, trong khi cũng không đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật để máy đọc được[21] - một trong những tính năng PHẢI CÓ của các công nghệ đương đại, ví dụ như, trí tuệ nhân tạo. Không được cấp phép mở, không tài nguyên nào là tài nguyên MỞ cả!

Hai từ khóa hàng đầu hiện nay là SỐ và MỞ! Chúng cần đi song hành với nhau. Để xây dựng chính sách cho tài nguyên giáo dục MỞ phù hợp với chương trình chuyển đổi SỐ quốc gia, cấp bách phải xây dựng các khung năng lực số quốc gia dựa vào, ví dụ như, việc tùy chỉnh các khung năng lực số của châu Âu, tuyệt đối không làm từ đầu, không phát minh lại cái bánh xe, biết rằng để có các khung đó, châu Âu đã có hàng chục nghiên cứu với hàng trăm tài liệu kết quả nghiên cứu về chuyển đổi số từ 2005, còn Việt Nam thì không. Ngoài ra, tất cả các khung năng lực số châu Âu đều tích hợp sẵn tính MỞ xoay quanh TNGDM và cấp phép mở với các giấy phép Creative Commons. Không có các khung năng lực số sẽ không có cách nào để đánh giá được tổ chức hay cá nhân nào thực sự có năng lực số để giúp hoàn thành các mục tiêu của chương trình CĐS quốc gia.

Việc lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông định hướng tiến hành chuyển đổi số bằng công nghệ mở và nền tảng mở là định hướng rất đúng, phù hợp với xu thế không thể đảo ngược của TNGDM và KHM của thế giới. Điều quan trọng là các khái niệm đó cần được toàn xã hội hiểu đúng và đầy đủ và được tích hợp trong các chính sách ứng dụng và phát triển TNGDM, cũng như trong quá trình triển khai các chính sách đó vào thực tế cuộc sống.

Gợi ý cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, là không thể áp dụng tư duy nguồn đóng để áp dụng cho thế giới nguồn mở, vì chúng không là như nhau, và trong nhiều trường hợp, là ngược nhau.

 

G. Phụ lục. Thực trạng TNGDM ở Việt Nam so với chuẩn mực của thế giới

Hầu hết tất cả các tài nguyên giáo dục của Việt Nam có sẵn trên trực tuyến ở thời điểm hiện tại đều không phải là TNGDM. Khi đối chiếu với định nghĩa TNGDM được nêu ở trên, ngoại trừ một số lượng vô cùng nhỏ tuân thủ với định nghĩa đó, ví dụ như bộ sách giáo khoa mở cho học sinh phổ thông của nhóm Cánh Buồm[22] hay các bài thi hợp lệ của cuộc thi cuộc thi Thiết kế bài giảng điện tử theo Quyết định số 2915/QĐ-BGDĐT ngày 17/09/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo[23], số còn lại thì không phải, vì ở đó người sử dụng chỉ có quyền nhiều nhất là truy cập miễn phí tới chúng, chứ họ không có quyền để tùy biến thích nghi và/hoặc sửa đổi chúng. Điều này có thể được giải thích rõ hơn thông qua phổ các giấy phép mở của hệ thống Creative Commons như trên Hình 4.

Cần lưu ý là, trên Hình 4, hai giấy phép Creative Commons (CC) nằm dưới cùng không phù hợp để cấp phép mở cho tài nguyên /tác phẩm để nó được gọi là TNGDM, vì hai giấy phép đó, CC BY-ND và CC BY-NC-ND, không cho phép người sử dụng tùy biến thích nghi và/hoặc sửa đổi tài nguyên /tác phẩm (có yếu tố ND - không phái sinh), và điều này là trái với định nghĩa TNGDM được nêu ở trên. Xem Hình 5 để dễ hình dung.

h4 1

Hình 4. Phân loại TNGDM theo phổ các giấy phép mở của hệ thống Creative Commons

Theo Luật sở hữu trí tuệ, bao gồm cả Luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam, ngay khi một tài nguyên / tác phẩm được tạo ra, nó sẽ tự động được Luật sở hữu trí tuệ bảo hộ, bất kể (các) tác giả của nó có đăng ký tác phẩm đó hay không. Vì thế, chỉ khi được chính (các) tác giả cho phép trước thông qua việc cấp phép mở, tài nguyên đó mới thực sự là tài nguyên mở, vì người sử dụng rõ ràng có được sự cho phép rồi từ (các) tác giả đối với tài nguyên đó để họ sử dụng mà không vi phạm bất kỳ bản quyền/các quyền sở hữu trí tuệ nào của (các) tác giả được Luật sở hữu trí tuệ bảo hộ.

h5 1

Hình 5. CC BY-ND và CC BY-NC-ND không phù hợp để cấp phép mở CC cho TNGDM

G1. Các TNGDM nằm trong phạm vi công cộng

Định nghĩa ở trên cho thấy, TNGDM có thể nằm trong phạm vi công cộng (PVCC). Có 2 dạng tài nguyên/tác phẩm nằm trong PVCC, dù ở dạng số hay không, cụ thể là:

  • Các tài nguyên /tác phẩm đang nằm sẵn rồi trong phạm vi công cộng: là khi chúng đã hết thời hạn bảo hộ của Luật sở hữu trí tuệ. Khi số hóa một tài nguyên /tác phẩm đang nằm sẵn rồi trong phạm vi công cộng thì phiên bản được số hóa của nó thường được gắn dấu phạm vi công cộng (Public Domain Mark). Đây là trường hợp duy nhất không có việc cấp phép mở cho tài nguyên/tác phẩm.

  • Các tài nguyên/ tác phẩm được (các) tác giả gắn giấy phép CC0. Bằng cách cấp phép mở với giấy phép CC0, (các) tác giả khước từ các quyền bản quyền và hiến tặng tác phẩm của mình vào phạm vi công cộng.

Các tác phẩm hết thời hạn bảo hộ của Luật và đang nằm sẵn rồi trong phạm vi công cộng (PVCC) thường có trong các thư viện, kho lưu trữ hoặc viện bảo tàng. Theo Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam, hầu như tất cả các tác phẩm do các tác giả Việt Nam sáng tạo ra từ năm 1900 trở về trước dọc theo lịch sử vài ngàn năm của Việt Nam, là nằm trong PVCC, vì chúng đã hết thời hạn bảo hộ của Luật. Chúng đều là các tài nguyên rất tốt cho văn hóa - khoa học - giáo dục, đặc biệt cho việc nghiên cứu trên nhiều khía cạnh dựa vào lịch sử vài ngàn năm của Việt Nam. Bất kỳ ai trong số gần 8 tỷ người trên thế giới cũng đều có quyền tự do không mất tiền để truy cập tới chúng một cách hợp lệ. Phiên bản số hóa của các tác phẩm đang nằm sẵn rồi trong PVCC cũng nên tiếp tục nằm trong PVCC, như của Europeana[24], một kho di sản văn hóa nổi tiếng của châu Âu.

Mặt khác, cũng có thể có các tác phẩm do các tác giả Việt Nam sáng tạo ra và họ khước từ các quyền bản quyền và các quyền liên quan của mình và hiến tặng chúng vào PVCC nhưng nhiều khả năng chúng chưa/không được số hóa và chưa/không được các tác giả cấp phép mở CC0, như điều có thể thấy ở các quốc gia phát triển.

Dù chưa có các báo cáo thống kê liệu có bao nhiêu trong số các tài nguyên /tác phẩm thuộc về PVCC ở cả 2 dạng kể trên đã được số hóa, có thể phỏng đoán số lượng các tài nguyên đó ở dạng số là hiếm thấy, nếu không nói là chưa tồn tại ở thời điểm hiện tại ở Việt Nam, nhưng có lẽ chúng sẽ được phát triển nhanh trong những năm tới, nhờ vào các quyết định gần đây của Thủ tướng Chính phủ, như Quyết định số 1296/QĐ-TTg[25] và 206/QĐ-TTg[26], nếu nhiều trong số chúng được số hóa và được gắn nhãn (dấu PVCC) và/hoặc cấp phép mở bằng giấy phép CC0 để vẫn được nằm lại trong PVCC[27].

G2. Các TNGDM và được cấp phép mở không thuộc về PVCC

Ngoại trừ các TNGDM thuộc về PVCC được nêu ở trên, hầu hết tất cả các tài nguyên giáo dục của Việt Nam có sẵn trên trực tuyến ở thời điểm hiện tại đều không phải là TNGDM, mà đặc điểm chung của chúng, là không được cấp phép mở, dù trong một số trường hợp, các tài nguyên giáo dục đó được truy cập miễn phí, đặc biệt trong giai đoạn đại dịch COVID-19. Dễ nhận thấy nhất đối với các tài nguyên giáo dục như vậy, là người sử dụng không có quyền để tùy chỉnh và/hoặc sửa đổi các tài nguyên đó.

Một dạng TNGDM phổ biến khác là các phần mềm nguồn mở được sử dụng trong giáo dục và đào tạo. Theo Khuyến nghị Khoa học Mở của UNESCO[28], thì:

“Phần mềm nguồn mở và mã nguồn mở thường gồm các phần mềm mà mã nguồn của chúng được làm cho sẵn sàng công khai, kịp thời và thân thiện với người sử dụng, ở định dạng cả con người và máy móc đều đọc được và sửa đổi được, theo một giấy phép mở trao cho những người khác quyền để sử dụng, sử dụng lại, sửa đổi, mở rộng, nghiên cứu, tạo ra các tác phẩm phái sinh, và chia sẻ phần mềm và mã nguồn đó, thiết kế hoặc kế hoạch chi tiết của nó. Mã nguồn đó phải được đưa vào trong phát hành phần mềm và làm cho sẵn sàng trong các kho truy cập mở và giấy phép được chọn phải cho phép các sửa đổi, có các tác phẩm phái sinh, và chia sẻ theo các điều khoản và điều kiện mở tương đương hoặc tương thích.”

Từ định nghĩa này có thể thấy, bất kỳ phần mềm nguồn mở nào được sử dụng trong việc dạy, học và nghiên cứu cũng đều là các TNGDM.

Hiện tại, ở Việt Nam, số lượng các dự án phần mềm nguồn mở là vô cùng ít, có thể đếm được trên đầu ngón tay, trong khi số lượng này trên thế giới là cỡ hàng trăm triệu dự án với hàng chục tỷ tệp mã nguồn được chia sẻ tự do không mất tiền trên Internet[29]. Không chỉ ít về số lượng, mà cách tận dụng mã nguồn của các dự án sẵn có đó trên thế giới ở Việt Nam cũng hiếm khi tuân theo mô hình phát triển đúng của một dự án phần mềm nguồn mở như đoạn trích bên dưới đây[30]:

“Trên thực tế, hầu hết các phần mềm nguồn mở đều do các cộng đồng lập trình viên phần mềm trên thế giới tạo ra, rất ít người trong số đó là người Việt Nam. Không ít các công ty Việt Nam tải về kho mã nguồn phần mềm nguồn mở, rồi sửa đổi các mã nguồn đó, sau đó đóng nó lại, ngắt bỏ mọi liên hệ với cộng đồng các lập trình viên của thế giới phát triển chính phần mềm đó. Cách làm này là rất không khôn ngoan, vì sau một khoảng thời gian, phần mềm được công ty tùy chỉnh đó có thể sẽ rất khác với phần mềm gốc của cộng đồng thế giới; và vì chúng ta không phải là những người khởi xướng ra phần mềm đó, nên nếu họ thay đổi ở (một) vài phần quan trọng của phần mềm đó, chúng ta sẽ gặp khó, đôi khi hoàn toàn mất khả năng quản lý và kiểm soát đối với phần mềm cùng các phần tùy chỉnh của chúng ta.”

G3. Các hoạt động có liên quan tới TNGDM

Nhằm thúc đẩy ứng dụng và phát triển TNGDM trên thế giới, ngày 25/11/2019, 193 quốc gia thành viên UNESCO đã nhất trí phê chuẩn Khuyến nghị TNGDM, nhấn mạnh tới 5 lĩnh vực ưu tiên thúc đẩy, gồm: (1) Xây dựng năng lực; (2) Phát triển chính sách hỗ trợ; (3) Khuyến khích truy cập tới TNGDM chất lượng; (4) Nuôi dưỡng sáng tạo các mô hình bền vững cho TNGDM; (5) Tạo thuận lợi cho hợp tác quốc tế.

Bám theo 5 lĩnh vực được nêu ở đây, đối sánh với các hoạt động đã và đang diễn ra có liên quan tới TNGDM ở Việt Nam, dù không đi sâu vào chi tiết, cho thấy như sau:

Xây dựng năng lực: phát triển năng lực của tất cả các bên liên quan chính cho giáo dục để tạo lập, truy cập, sử dụng lại, tái mục đích, tùy biến thích nghi, và phân phối lại TNGDM, cũng như để sử dụng và áp dụng các giấy phép mở theo cách thức ổn định với pháp luật bản quyền quốc gia và các bổn phận quốc tế;

Khuyến nghị TNGDM của UNESCO nêu:

Các bên liên quan chính trong các khu vực chính quy, không chính quy và phi chính quy trong Khuyến nghị bao gồm: các giảng viên, nhà giáo dục, người học, cơ quan chính phủ, các bậc phụ huynh, các nhà cung cấp và các cơ sở giáo dục, các nhân viên hỗ trợ giáo dục, các huấn luyện viên giảng dạy, những người làm chính sách giáo dục, các cơ sở văn hóa (như các thư viện, kho lưu trữ và viện bảo tàng) và những người sử dụng chúng, các nhà cung cấp hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT-TT), các nhà nghiên cứu, các cơ sở nghiên cứu, các tổ chức xã hội dân sự (bao gồm các hiệp hội nghề nghiệp và sinh viên), các nhà xuất bản, các khu vực nhà nước và tư nhân, các tổ chức liên chính phủ, những người nắm giữ bản quyền và các tác giả, các nhóm truyền thông và phát thanh và các cơ quan cấp vốn.

Có thể nói ở thời điểm hiện tại, hầu hết tất cả các bên liên quan chính ở Việt Nam có lẽ chưa biết hoặc chưa quan tâm tới đủ tới TNGDM, ngoại trừ một vài hội, hiệp hội nghề nghiệp, một vài trường đại học, và một vài cá nhân có mối quan tâm, một cách tự phát. Cũng có một số hoạt động nâng cao nhận thức, tổ chức các hội nghi, hội thảo, tọa đàm từ năm 2012 cho tới nay[31]; và đặc biệt là các khóa huấn luyện huấn luyện viên thực hành khai thác TNGDM, dù với số lượng các học viên tham dự là rất khiêm tốn. Từ năm 2017 cho tới nay[32], chỉ gần 60 khóa thực hành như vậy được tiến hành cho gần 1.200 học viên là các cán bộ, giảng viên của một số trường đại học, cao đẳng khắp cả nước, một con số rất khiêm tốn nếu so với số lượng toàn bộ các giảng viên trong ngành giáo dục ở Việt Nam cần phải có các năng lực và kỹ năng về TNGDM là khoảng 1,5 triệu người, chưa nói gì tới các bên liên quan chính khác như được nêu ở trên.

Điều quan trọng khác ở khía cạnh xây dựng năng lực TNGDM, là việc sử dụng và áp dụng các giấy phép mở theo cách thức ổn định với pháp luật bản quyền quốc gia và các bổn phận quốc tế là chưa tồn tại ở Việt Nam hiện nay, trong khi việc cấp phép mở là điều kiện tiên quyết để một tài nguyên giáo dục trở thành TNGDM.

Tóm lại, việc xây dựng năng lực TNGDM ở thời điểm hiện tại ở Việt Nam là còn thiếu và còn rất yếu so với Khuyến nghị của UNESCO: “cung cấp việc xây dựng năng lực có hệ thống và liên tục (trong và trước khi phục vụ) về cách để tạo lập, truy cập, làm cho sẵn sàng, sử dụng lại, tùy biến thích nghi, và phân phối lại TNGDM như một phần không thể thiếu của các chương trình huấn luyện ở tất cả các mức giáo dục, bao gồm trợ giúp trong các chương trình huấn luyện ban đầu cho các nhà giáo dục.”

Phát triển chính sách hỗ trợ: khuyến khích các chính phủ, các nhà chức trách và các cơ sở giáo dục áp dụng thường xuyên khung công việc hỗ trợ cho việc cấp phép mở cho các tư liệu giáo dục và nghiên cứu được nhà nước cấp vốn, phát triển các chiến lược để xúc tác cho sử dụng và tùy biến thích nghi TNGDM để hỗ trợ cho giáo dục chất lượng cao, hòa nhập và học tập suốt đời cho tất cả mọi người, được nghiên cứu thích hợp trong lĩnh vực này hỗ trợ;

Có thể nói ở thời điểm hiện tại, không/chưa ở đâu ở Việt Nam, cả ở mức quốc gia, địa phương và cơ sở giáo dục có khung công việc hỗ trợ cho việc cấp phép mở cho các tư liệu giáo dục và nghiên cứu được nhà nước cấp vốn, cũng không/chưa ở đâu phát triển các chiến lược để xúc tác cho sử dụng và tùy biến thích nghi TNGDM để hỗ trợ cho giáo dục chất lượng cao, hòa nhập và học tập suốt đời cho tất cả mọi người.

Dù vậy, cũng đã có những dấu hiệu tích cực cho thấy, trong những năm tới có thể có những khởi sắc trong chính sách về TNGDM từ khu vực nhà nước, với một số Đề án có liên quan tới TNGDM như: (1) Đề án của Vụ GDTX về xây dựng xã hội học tập do Bộ GDĐT chủ trì, trong đó có lồng ghép một số Đề án có liên quan tới TNGDM do các Bộ – Ngành - Tổ chức xã hội khác chủ trì; (2) Đề án Xây dựng mô hình TNGDM trong GDĐH; (3) Đề án Chuyển đổi số trong GDNN của Tổng cục GDNN, Bộ LĐ-TB-XH. Cả 3 Đề án này đều đang ở giai đoạn hoàn thiện để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Truy cập hiệu quả, hòa nhập và công bằng tới TNGDM chất lượng: hỗ trợ áp dụng các chiến lược và chương trình, bao gồm qua các giải pháp công nghệ thích hợp để đảm bảo TNGDM trong bất kỳ phương tiện nào được chia sẻ ở các định dạng và các tiêu chuẩn mở để tối đa hóa truy cập công bằng, đồng sáng tạo, giám tuyển, và khả năng tìm thấy được, bao gồm cho những người từ các nhóm bị tổn thương và những người khuyết tật;

Đây là công việc hy vọng sẽ có trong tương lai từ 2022 trở đi, khi các Đề án có liên quan tới TNGDM được nêu ở trên được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Cũng cần phải lưu ý là, ở thời điểm hiện tại, các định dạng và tiêu chuẩn mở hầu như vô cùng hiếm được sử dụng cả trong toàn bộ ngành giáo dục cũng như trong toàn bộ các cơ quan nhà nước. Hầu hết các định dạng và tiêu chuẩn được sử dụng đều là các định dạng và tiêu chuẩn sở hữu độc quyền, bị phụ thuộc và khóa trói (lock-in) vào các nhà cung cấp độc quyền. Đây có thể là trở ngại vô cùng lớn cho Việt Nam trong tương lai, nếu không có các thay đổi chính sách có tính bước ngoặt.

Nuôi dưỡng sự sáng tạo các mô hình bền vững cho TNGDM: hỗ trợ và khuyến khích sáng tạo các mô hình bền vững cho TNGDM ở mức quốc gia, khu vực và cơ sở, và lên kế hoạch và kiểm thử thí điểm các dạng thức bền vững mới của giáo dục và học tập;

Do đặc điểm của mô hình phát triển và mô hình cấp phép của TNGDM, các mô hình bền vững cho TNGDM thường là các mô hình doanh thu của thế giới nguồn mở, dựa vào việc bán các dịch vụ xung quanh sản phẩm của chung cộng đồng, chứ không dựa vào các mô hình kinh doanh của thế giới nguồn đóng, thường dựa vào việc bán trực tiếp các sản phẩm là sở hữu độc quyền của công ty, tập đoàn. Các mô hình doanh thu dựa vào việc bán các dịch vụ xung quanh sản phẩm của chung cộng đồng hầu như hoàn toàn trái ngược với văn hóa vài ngàn năm lịch sử của Việt Nam[33] được truyền đời qua các thành ngữ như ‘tiền nào của nấy’ hay ‘ăn bánh trả tiền’, trong khi các mô hình doanh thu dựa vào việc bán các dịch vụ lại được các tập đoàn giàu có nhất thế giới, phần lớn trong số họ là các tập đoàn công nghệ số, đã và đang triển khai trong thực tế hàng ngày. Các mô hình doanh thu bền vững cho TNGDM đều dựa vào nguyên lý cộng lực để phát triển với 2 điều kiện tiên quyết cùng song hành: Mở và Vô hình[34].

Thay đổi văn hóa là việc khó, thậm chí rất khó, có thể mất hàng thế kỷ. Nhưng có thể, trong kỷ nguyên số, khi mà chuyển đổi số là mệnh lệnh cho tất cả các quốc gia có mong muốn phát triển, trong khi kết quả của chuyển đổi số chắc chắn 100% sẽ là các tài nguyên vô hình, thì việc không thay đổi văn hóa như được nêu ở trên, có thể sẽ luôn cản trở sự phát triển của Việt Nam và chương trình chuyển đổi số của Việt Nam nói chung, và TNGDM, nói riêng. Có thể, việc thay đổi văn hóa từ đóng sang mở, là rào cản lớn nhất nhằm nuôi dưỡng sự sáng tạo các mô hình bền vững cho TNGDM ở Việt Nam.

Khai thác và tạo thuận lợi cho hợp tác quốc tế: hỗ trợ hợp tác quốc tế giữa các bên liên quan để tối thiểu hóa đúp bản không cần thiết trong các đầu tư phát triển TNGDM và để phát triển kho toàn cầu các tư liệu giáo dục đa dạng, phù hợp với địa phương, nhạy cảm với giới tính, truy cập được trong nhiều ngôn ngữ và định dạng.

Việt Nam có hợp tác quốc tế trong hầu hết tất cả các lĩnh vực của xã hội và nền kinh tế. Tuy nhiên, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực có liên quan tới TNGDM có lẽ là rất hiếm thấy ở thời điểm hiện tại. Được biết, từ góc độ của cấp phép mở như được chỉ ra trên Hình 5, thì dữ liệu mở là TNGDM, dù ngược lại, thì không đúng. Ở lĩnh vực dữ liệu mở, hiện Việt Nam có vài tổ chức, đơn vị, là thành viên của Đối tác Dữ liệu Mở châu Á - AODP (Asian Open Data Partnership)[35], một tổ chức có sứ mệnh thúc đẩy ứng dụng và phát triển dữ liệu mở ở châu Á dựa vào văn hóa và nhu cầu của các quốc gia châu Á.

Tại các hội nghị AODP trong các năm 2019 và 2020[36], đại diện của Việt Nam từ khối giáo dục đã tham dự và đã có các bài trình bày nhấn mạnh việc ứng dụng và phát triển dữ liệu mở ở Việt Nam tốt nhất và khả thi nhất là thông qua giáo dục và bằng TNGDM.

Năm 2021 là năm Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị AODP, dù là trên trực tuyến vì đại dịch COVID-19, là một điểm sáng cho khía cạnh hợp tác quốc tế trong lĩnh vực TNGDM. Hội nghị toàn thể AODP năm nay diễn ra vào ngày 16/11/2021, là hội nghị AODP lần đầu tiên có một phiên dành riêng cho giáo dục ‘Dữ liệu Mở cho Công nghệ Giáo dục’.

Cũng thừa nhận là các hoạt động khai thác và tạo thuận lợi cho hợp tác quốc tế có thể còn được tiến hành ở vài cơ sở giáo dục nào đó khác mà chưa được nhắc tới ở đây.


H. Các chú giải

[1] UNESCO, 2019: Certified Copy of the Recommendation on Open Educational Resources (OER): https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000373755/PDF/373755eng.pdf.multi.page=3. Bản dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt: https://www.dropbox.com/s/o6lml26uw88ear2/DCPMS_U1911920_Vi-04122019.pdf?dl=0

[2] OE Global, 2021: OE Global Conference: https://conference.oeglobal.org/2021/

[3] UNESCO, 2021: UNESCO Recommendation on Open Science: https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000379949. Bản dịch sang tiếng Việt: https://www.dropbox.com/s/l3q04t99nil5mgo/379949eng_Vi-25112021.pdf?dl=0

[4] Lê Trung Nghĩa, 2021: Những điều cơ bản về nguồn mở (Phần 1), phần D. Mô hình cấp phép của phần mềm nguồn mở: https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/nhung-dieu-co-ban-ve-nguon-mo-phan-1-448.html

[5] Bộ Thông tin và Truyền thông: Cẩm nang chuyển đổi số: https://dx.mic.gov.vn/

[6] Hồ Tú Bảo, 2020: Chuyển đổi số trong giáo dục...: https://www.dropbox.com/s/jpru491u465lxeo/1.%20Digital%20Transformation%20WS%20Handouts.pdf?dl=0

[7] Lê Trung Nghĩa, 16/12/2020: Gợi ý: Làm gì khi lựa chọn Công nghệ Mở để Chuyển đổi Số?: https://www.dropbox.com/s/l1awp1rgb68px5n/Vietnam_Internet_Day_16122020_Presentation.pdf?dl=0

[8] Lê Trung Nghĩa, 2021: Các khung năng lực số của Liên minh châu Âu và vài gợi ý cho Việt Nam để chuyển đổi số thành công: https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/cac-khung-nang-luc-so-cua-lien-minh-chau-au-va-vai-goi-y-cho-viet-nam-de-chuyen-doi-so-thanh-cong-534.html

[9] Lê Trung Nghĩa, 2021: Tính mở trong các khung năng lực số của châu Âu và vài gợi ý triển khai chương trình “Chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”: https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/tinh-mo-trong-cac-khung-nang-luc-so-cua-chau-au-va-vai-goi-y-trien-khai-chuong-trinh-chuyen-doi-so-nganh-thu-vien-den-nam-2025-dinh-huong-den-nam-2030-532.html

[10] Vietnamnet: Toàn văn phát biểu của Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng tại diễn đàn công nghệ mở Việt Nam: https://vietnamnet.vn/vn/thong-tin-truyen-thong/toan-van-phat-bieu-cua-bo-truong-nguyen-manh-hung-tai-dien-dan-cong-nghe-mo-viet-nam-689681.html

[11] Trang tin của Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2020: Hội thảo “Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo”: https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/tang-cuong-ung-dung-cntt/Pages/Default.aspx?ItemID=7123

[12] Bộ Quốc phòng Mỹ, tháng 4/2006: Open Technology Development - Roadmap Plan: https://www.acqnotes.com/Attachments/Open%20Open%20Technology%20Development%20Roadmap%20-%20April%202006.pdf, p. 7. Bản dịch sang tiếng Việt có tại địa chỉ: https://www.dropbox.com/s/ildow3b0qx39f59/OTD-Roadmap-Final-Vi-29122011.pdf?dl=0, trang 6.

[13] Open Source Initiative: Open Standards Requirement for Software: https://opensource.org/osr. Bản dịch sang tiếng Việt: https://giaoducmo.avnuc.vn/dinh-dang-mo/yeu-cau-cac-tieu-chuan-mo-cho-phan-mem-439.html

[14] IBM: Application Programming Interface (API); Types of APIs: https://www.ibm.com/cloud/learn/api

[15] Lê Trung Nghĩa, 2021: Những điều cơ bản về nguồn mở (Phần 1): https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/nhung-dieu-co-ban-ve-nguon-mo-phan-1-448.html

[16] Lê Trung Nghĩa, 2021: Phần cứng nguồn mở: Đổi mới sáng tạo tốc độ cao: https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/phan-cung-nguon-mo-doi-moi-sang-tao-toc-do-cao-487.html

[17] Bộ Quốc phòng Mỹ, 2011: Open Technology Development - Lessons Learned and Best Practices for Military Software: https://dodcio.defense.gov/Portals/0/Documents/FOSS/OTD-lessons-learned-military-signed.pdf, p. 5. Bản dịch sang tiếng Việt: https://www.dropbox.com/s/7dr3l68df0n8qkd/OTD-Lessons-Learned-And-Best-Practices-For-Military-Software-Vi.pdf, trang 10.

[18] Bộ Quốc phòng Mỹ, 2011: Open Technology Development - Lessons Learned and Best Practices for Military Software: https://dodcio.defense.gov/Portals/0/Documents/FOSS/OTD-lessons-learned-military-signed.pdf, p. 33. Bản dịch sang tiếng Việt: https://www.dropbox.com/s/7dr3l68df0n8qkd/OTD-Lessons-Learned-And-Best-Practices-For-Military-Software-Vi.pdf, trang 42-43.

[19] Lê Trung Nghĩa, 2021: Những điều cơ bản về nguồn mở (Phần 2): https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/nhung-dieu-co-ban-ve-nguon-mo-phan-2-471.html

[20] Lê Trung Nghĩa, 2021: Cần một nền tảng mở cho chuyển đổi số trong giáo dục: https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/can-mot-nen-tang-mo-cho-chuyen-doi-so-trong-giao-duc-504.html

[21] wiki.creativecommons.org: Marking your work with a CC license. Machine-readability: https://wiki.creativecommons.org/wiki/Marking_your_work_with_a_CC_license#Author.2C_License.2C_Machine-readability.

[22] Cánh Buồm. Sách mở: https://canhbuom.edu.vn/sachmo/

[23] Bộ Giáo dục và Đào tạo: Quyết định số 2915/QĐ-BGDĐT ngày 17/09/2021 của Bộ Giáo dục và Đào tạo Về việc ban hành Thể lệ cuộc thi Thiết kế bài giảng điện tử: https://images.giaoducthoidai.vn/public/nhungnt/2021-09-17/2915-qd-bgddt-the-le-cuoc-thi-e-learning.pdf

[24] Lê Trung Nghĩa, 2021: Công nghệ mở trong các cơ sở văn hóa và giáo dục: https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/cong-nghe-mo-trong-cac-co-so-van-hoa-va-giao-duc-513.html

[25] Cổng thông tin điện tử Chính phủ: Quyết định số 1296/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ: Phê duyệt Chương trình "Nghiên cứu, xây dựng cơ sở dữ liệu và công bố tác phẩm văn học nghệ thuật Việt Nam trên nền tảng cách mạng công nghiệp lần thứ tư": http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=2&_page=1&mode=detail&document_id=200827

[26] Cổng thông tin điện tử Chính phủ: Quyết định số 206/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Phê duyệt "Chương trình chuyển đổi số ngành thư viện đến năm 2025, định hướng đến năm 2030": http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=2&_page=1&mode=detail&document_id=202657

[27] Lê Trung Nghĩa, 2020: Chuyển đổi số của ngành văn hóa trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư và khía cạnh chuyển thể các tác phẩm và di sản văn hóa đang nằm trong phạm vi công cộng sang dạng kỹ thuật số: https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/chuyen-doi-so-cua-nganh-van-hoa-trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc-te-va-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu-va-khia-canh-chuyen-the-cac-tac-pham-va-di-san-van-hoa-dang-nam-trong-pham-vi-cong-cong-sang-dang-ky-thuat-so-312.html

[28] UNESCO, 12/05/2021: UNESCO Recommendation on Open Science: https://unesdoc.unesco.org/ark:/48223/pf0000379949. Bản dịch sang tiếng Việt: https://www.dropbox.com/s/l3q04t99nil5mgo/379949eng_Vi-25112021.pdf?dl=0

[29] Software Heritage: https://www.softwareheritage.org/

[30] Lê Trung Nghĩa, 2021: Những điều cơ bản về nguồn mở (Phần 1): https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/nhung-dieu-co-ban-ve-nguon-mo-phan-1-448.html

[31] Trang Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở: Các bài trình chiếu tại hội nghị và hội thảo tới hết năm 2020: https://giaoducmo.avnuc.vn/hoi-thao/cac-bai-trinh-chieu-tai-hoi-nghi-va-hoi-thao-toi-het-nam-2020-372.html

[32] Trang Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở: Các lớp tập huấn thực hành ‘Khai thác tài nguyên giáo dục mở’ tới hết năm 2020: https://giaoducmo.avnuc.vn/tap-huan/cac-lop-tap-huan-thuc-hanh-khai-thac-tai-nguyen-giao-duc-mo-toi-het-nam-2020-370.html

[33] Lê Trung Nghĩa, 2021: Những điều cơ bản về nguồn mở (Phần 1): https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/nhung-dieu-co-ban-ve-nguon-mo-phan-1-448.html, xem phần B. Triết lý của nguồn mở và văn hóa của người Việt Nam.

[34] Lê Trung Nghĩa, 2020: Chuyển đổi số: Cách tiếp cận mới về mở: https://giaoducmo.avnuc.vn/bai-viet-toan-van/chuyen-doi-so-cach-tiep-can-moi-ve-mo-280.html

[35] Trang web của AODP: About: https://opendata.tca.org.tw/asia/about.php

[36] Trang Giáo dục Mở - Tài nguyên Giáo dục Mở: Đối thoại của Đối tác Dữ liệu Mở châu Á 2020: https://giaoducmo.avnuc.vn/hop-tac/doi-thoai-cua-doi-tac-du-lieu-mo-chau-a-2020-qua-hinh-anh-320.html


cc by sa logo 1

Giấy phép nội dung: CC BY-SA 4.0 Quốc tế

Lê Trung Nghĩa

PS: Thông tin trong bài về Khuyến nghị Khoa học Mở của UNESCO đã được cập nhật ngày 24/12/2021.

Xem thêm:

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

GIÁO DỤC MỞ - TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ: ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN

Trang Web này được thành lập theo Quyết định số 142/QĐ-HH do Chủ tịch Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam – AVU&C (Association of Vietnam Universities and Colleges), GS.TS. Trần Hồng Quân ký ngày 16/09/2019, ngay trước thềm của Hội thảo ‘Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở’ do 5...

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập58
  • Máy chủ tìm kiếm6
  • Khách viếng thăm52
  • Hôm nay8,981
  • Tháng hiện tại141,312
  • Tổng lượt truy cập7,019,341
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây