Chính sách nghiên cứu mở (của Trường Đại học Birkbeck, Đại học Luân Đôn)

Thứ ba - 31/05/2022 19:05

Open research policy

Theo: https://www.bbk.ac.uk/about-us/policies/open-access-research

1. Nền tảng

1.1 Vào năm 1823, nhà sáng lập trường TS. George Birkbeck đã đưa ra tầm nhìn của ông: ‘bây giờ là lúc cho những lợi ích phổ quát của phước lành tri thức’. Tuyên bố đó tiếp tục chống trụ cho sứ mệnh và văn hóa của cơ sở, dẫn dắt các kết nối và đối tác Birkbeck đã làm giữa làm việc, học tập, văn hóa, nghiên cứu, và xã hội.

1.2 Nghiên cứu mở kỳ vọng rằng ‘kiến thức tất cả các dạng nên được chia sẻ mở càng sớm càng tốt vì nó là thực hành trong quá trình phát hiện’. Bổ sung thêm cho việc mở truy cập tới các phát hiện nghiên cứu, các kết quả và đầu ra, nó ngụ ý mở ra càng nhiều càng tốt các dữ liệu chống trụ thực hành, các nguồn dữ liệu, và các giao thức và việc tận dụng thích đáng các công cụ sở hữu trí tuệ (IP) mở như phần mềm nguồn mở và các giấy phép mở.

2. Các nhà nghiên cứu mở

2.1 ORCID (Mã nhận dạng Nhà nghiên cứu và Người đóng góp Mở - Open Researcher and Contributor ID) đã được phát triển để giúp nhận dạng nhà nghiên cứu và hỗ trợ cho sự minh bạch nghiên cứu. ORCID ID là mã nhận dạng thường trực duy nhất xác định cá nhân các nhà nghiên cứu. Những lợi ích của một ORCID ID đối với cá nhân một nhà nghiên cứu gồm:

  • Bạn sẽ được phân biệt với bất kỳ nhà nghiên cứu nào khác, thậm chí các nhà nghiên cứu chia sẻ tên y hệt của bạn.

  • Các kết quả đầu ra và các hoạt động nghiên cứu của bạn sẽ được ghi công đúng cho bạn.

  • Những đóng góp và liên kết của bạn sẽ được kết nối tới bạn một cách dễ dàng và tin cậy.

  • Bạn sẽ hưởng thụ khả năng phát hiện và thừa nhận được cải thiện.

  • Bạn sẽ có khả năng kết nối hồ sơ của bạn với các cơ sở, các nhà cấp vốn, và các nhà xuất bản.

2.2 Trường Đại học yêu cầu tất cả các nhà nghiên cứu từ nhà trường (như, các nhà nghiên cứu được nhà trường tuyển dụng và các sinh viên nghiên cứu được nhà trường giám sát) phải có và sử dụng một ORCID ID, và phải chủ động tích cực đặt các phát hiện nghiên cứu của họ vào phạm vi công cộng.

3. Các xuất bản phẩm nghiên cứu truy cập mở

3.1 Tất cả các kết quả đầu ra nghiên cứu được các nhà nghiên cứu từ nhà trường sản xuất ra (như, từ các nhà nghiên cứu được nhà trường tuyển dụng và nghiên cứu được các sinh viên nghiên cứu được nhà trường giám sát, tạo ra) cần phải được ký gửi vào kho của cơ sở chúng tôi, BIROn.

3.2 Các đoạn 3.4 tới 3.8 đặc biệt liên quan tới các dạng xuất bản phẩm nghiên cứu được sản xuất sau đây:

  • Các kết quả đầu ra dạng ngắn:

    • Các bài báo trên tạp chí được rà soát lại ngang hàng được chấp nhận để xuất bản trên một tạp chí hoặc trên một nền tảng xuất bản trên trực tuyến mà xuất bản tác phẩm gốc (thay vì một nền tảng tổng hợp và/hoặc xuất bản nội dung). Điều này bao gồm các xuất bản phẩm dữ liệu thứ cấp được rà soát lại ngang hàng như các bài báo rà soát lại.

    • Các tài liệu hội nghị được rà soát lại ngang hàng được chấp nhận để xuất bản trên một tạp chí, kỷ yếu hội nghị với một ISSN, hoặc bởi một nền tảng xuất bản trên trực tuyến mà xuất bản tác phẩm gốc.

  • Các kết quả đầu ra dạng dài:

    • Các chương sách mang một ISBN, bao gồm các chương trong các cuốn sách học thuật phát sinh từ các hội nghị

    • Các sách chuyên khảo học thuật, bao gồm các sách chuyên khảo học thuật có nhiều hơn một tác giả

    • Các bộ sưu tập được biên soạn, nơi các yêu cầu liên quan tới bộ sưu tập hoàn chỉnh.

3.3 Các dạng xuất bản phẩm nghiên cứu khác (như có thể bắt nguồn từ các kết quả đầu ra từ nghiên cứu theo hợp đồng và các thỏa thuận tư vấn) là nằm ngoài phạm vi của chính sách này. Tuy nhiên, trường Đại học có thể khuyến khích bất kỳ ai xuất bản với liên kết tới trường để cân nhắc liệu nó có là thích hợp để tuân theo chính sách này hay không đối với bất kỳ dạng kết quả đầu ra nghiên cứu nào khác.

Các dịch vụ đối với các bài báo chưa được rà soát lại ngang hàng (các dịch vụ Pre-print) như Arxiv) cũng nằm ngoài phạm vi của chính sách này. Tuy nhiên, trường Đại học thừa nhận giá trị của các máy chủ như vậy trong việc hỗ trợ cho các thực hành nghiên cứu mở và khuyến khích các nhà nghiên cứu của chúng tôi sử dụng các dịch vụ như vậy ở những nơi các dịch vụ đó sẵn sàng theo nguyên tắc nhất định. Giá trị của các dịch vụ pre-print đã được đại dịch COVID-19 gần đây thể hiện và trường Đại học giữ lại quyền yêu cầu các nhà nghiên cứu của chúng tôi sử dụng các dịch vụ như vậy trong trường hợp khẩn cấp.

3.4 Bất kỳ kết quả đầu ra nào ở dạng ngắn phải được xuất bản:

  • trên một tạp chí hoặc trên một nền tảng trên trực tuyến truy cập mở đầy đủ mà làm cho phiên bản hồ sơ sẵn sàng tức thì tại thời điểm xuất bản lần đầu, với một giấy phép CC BY trên website của nó ở định dạng tự do không mất tiền và không có hạn chế để xem và tải về, và đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật mà tạo thuận lợi cho truy cập, phát hiện, và sử dụng lại nghiên cứu đó. Điều này bao gồm các tạp chí thuê bao nơi mà trường Đại học đã ký một thỏa thuận chuyển đổi quá độ.

hoặc

  • trên một tạp chí thuê bao mà cho phép hoặc Phiên bản Hồ sơ hoặc Bản thảo được Tác giả Chấp nhận - AAM (Authors Accepted Manuscript) sẽ được ký gửi vào một kho phù hợp theo một giấy phép CC BY ở thời điểm xuất bản lần đầu. Ký gửi đó phải ở định dạng là tự do không mất tiền và không có hạn chế để xem và tải về, và đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật mà tạo thuận lợi cho truy cập, phát hiện, và sử dụng lại nghiên cứu đó. Trong các trường hợp đó, nhà nghiên cứu cũng phải đưa tuyên bố sau đây vào phần thừa nhận cấp vốn và trong bất kỳ thư nào hoặc lưu ý nào ngoài tờ bìa gắn kèm với đệ trình đó: ‘vì các mục đích của truy cập mở, tác giả đã áp dụng một giấy phép bản quyền công cộng CC BY cho bất kỳ phiên bản nào phát sinh từ đệ trình này của bản thảo được tác giả chấp nhận’. Trường Đại học đảm bảo rằng các khi tuân thủ với các tiêu chuẩn kỹ thuật cần thiết được tham chiếu ở trên.

Để tránh nghi ngờ, nhà xuất bản mà đã yêu cầu ‘các giai đoạn cấm vận’ giữa thời điểm xuất bản lần đầu và thời điểm làm cho ký gửi đó sẵn sàng qua kho đó là không tuân thủ với chính sách này.

Cần được lưu ý là nhiều nhà cấp vốn tài trợ cho nghiên cứu y sinh học (bao gồm Wellcome Trust, BBSRC và MRC) cũng yêu cầu các kết quả đầu ra được làm cho sẵn sàng tự do không mất tiền theo các điều khoản y hệt trên PubMed Central và/hoặc Europe PubMed Central.

3.5 Để tuân thủ với chính sách này, đối với bất kỳ kết quả đầu ra dạng dài nào:

  • Phiên bản Hồ sơ hoặc Bản thảo được Tác giả Chấp nhận (ÂM) cuối cùng phải là tự do không mất tiền để xem qua một nền tảng xuất bản trên trực tuyến, website của nhà xuất bản hoặc kho của cơ sở trong tối đa 12 tháng kể từ khi xuất bản, với một giấy phép CC BY, ở định dạng là tự do không mất tiền và không có hạn chế để xem và tải về, và đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật mà tạo thuận lợi cho truy cập, phát hiện, và sử dụng lại nghiên cứu đó. Trường Đại học cam kết rằng kho cơ sở của chúng tôi, BIROn, sẽ đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật đó.

  • Ở những nơi có thể, phiên bản truy cập mở nên bao gồm bất kỳ hình ảnh, hình minh họa, bảng biểu và các nọi dung hỗ trợ khác. Ở những nơi bản thảo được tác giả chấp nhận được ký gửi, cần làm rõ trong bản thảo đó rằng đây không phải là phiên bản được xuất bản cuối cùng.

  • Trường Đại học khuyến khích rằng, ở những nơi có thể, các tiêu chuẩn siêu dữ liệu và và mã nhận dạng thường trực cần được áp dụng cho các kết quả đầu ra dạng dài. Tuy nhiên, điều này hiện chưa phải là một yêu cầu của chính sách này.

3.6 Giấy phép CC BY phải được sử dụng trừ phi một hoặc nhiều ngoại lệ sau đây là có:

  • Nếu tác phẩm tuân thủ theo Bản quyền Nhà vua (Crown Copyright), một Giấy phép Chính phủ Mở là chấp nhận được và được coi là tuân thủ với chính sách này.

  • Một cách ngẫu nhiên, và trên cơ sở từng trường hợp một đối với các kết quả đầu ra dạng ngắn, các ngoại lệ đối với chính sách này có thể được phép nơi mà kết quả đầu ra được xuất bản theo một giấy phép hạn chế hơn khi không có phái sinh (CC BY-ND). Điều này tuân theo sự phê chuẩn của PVC (Nghiên cứu), người sẽ được hỗ trợ trong việc ra quyết định bởi Chủ tịch của Nhóm Làm việc Nghiên cứu Mở (Open Research Working Group).

3.7 Theo các điều khoản của chính sách này, các bài báo gồm tư liệu bản quyền của bên thứ 3 là tuân thủ thậm chí nếu các điều khoản cấp phép khắt khe hơn được áp dụng cho tư liệu bản quyền của bên thứ 3. Một ngoại lệ của chính sách này sẽ được trao nếu có thể chỉ ra được rằng không có khả năng để có được sự cho phép sử dụng lại và đã không có lựa chọn thay thế nào phù hợp để cho phép xuất bản phẩm truy cập mở (ví dụ, nó trả về xuất bản phẩm không thể hiểu được để biên tập các tư liệu đó từ phiên bản truy cập mở).

3.8 Tất cả các kết quả đầu ra nghiên cứu được chính sách này bao trùm phải đưua vào một Tuyên bố Truy cập Dữ liệu (Data Access Statement) để thông tin cho các độc giả nơi các tư liệu nghiên cứu nằm bên dưới có liên quan với kết quả đầu ra là sẵn sàng và làm thế nào chúng có thể được truy cập, bao gồm một đường liên kết tới một tập hợp dữ liệu nếu phù hợp. Các tư liệu nghiên cứu nằm bên dưới có thể bao gồm (nhưng không bị giới hạn) mã, phần mềm, các điểm số, các hồ sơ văn bản, hình ảnh, âm thanh, đối tượng, bản thảo, .v.v., cũng như các tập hợp dữ liệu thí nghiệm.

4. Dữ liệu Nghiên cứu Mở

4.1 Chính sách này liên quan tới dữ liệu nghiên cứu được các nhà nghiên cứu được trường Đại học tuyển dụng và các sinh viên nghiên cứu tạo ra theo sự giám sát của nhà trường. Nó thừa nhận giá trị của dữ liệu nghiên cứu như là nguồn cả đối với (các) nhà nghiên cứu tạo ra và đối vói các nhà nghiên cứu tiếp sau đó đối với việc sử dụng lại dữ liệu và phân tích siêu dữ liệu. Tuy nhiên, như một phần cốt lòi của chính sách này, được thừa nhận rằng các nhà sáng tạo dữ liệu nghiên cứu có quyền sử dụng hợp lý trước tiên.

4.2 Ở những nơi thích hợp cho nghiên cứu được được tiến hành, là trách nhiệm của nhà nghiên cứu lãnh đạo rằng kế hoạch quản lý dữ liệu nghiên cứu thích hợp được tạo ra, và để đảm bảo rằng tất cả các thành viên của nhóm nghiên cứu nhận thức được, hiểu được, và tuân theo kế hoạch đó. Là trách nhiệm của nhà nghiên cứu lãnh đạo để đảm bảo rằng dữ liệu nghiên cứu chỉ được ký gửi vào kho ở thời điểm trong vòng đời nghiên cứu ở nơi nó là phù hợp để làm như vậy, và rằng dữ liệu được lưu trữ, xử lý, giám tuyển, và quản lý đúng thích đáng cho tới thời điểm này.

4.3 Chính sách này yêu cầu tất cả các nhà nghiên cứu và các sinh viên nghiên cứu quản lý các tư liệu nghiên cứu và các dữ liệu nghiên cứu nằm bên dưới của họ thông qua vòng đời nghiên cứu và, ở những nơi cần thiết, để các dữ liệu sẽ được giám tuyền trước khi được làm cho sẵn sàng như được mô tả trong tuyên bố truy cập dữ liệu (xem đoạn 3.7). Tất cả dữ liệu liên quan phải được ký gửi vào một kho phù hợp hoặc trước ngày xuất bản lần đầu của kết quả đầu ra tương ứng. Tất cả dữ liệu cần tuân thủ với một giấy phép mà cho phép những người khác để sao chép, phân phối, truyền đi và tùy chỉnh tác phẩm theo điều kiện mà người sử dụng phải thừa nhận ghi công tác phẩm theo cách thức được tác giả hoặc người cấp phép chỉ định (nhưng không theo bất kỳ cách nào mà gợi ý họ xác nhận người dùng hoặc việc sử dụng tác phẩm của họ), ví dụ một giấy phép CC BY.

4.4 Sử dụng dữ liệu của những người khác luôn cần tuân thủ với các khung pháp lý, đạo đức và quy định, bao gồm việc thừa nhận ghi công đúng.

4.5 Các yêu cầu của các bên thứ 3 để truy cập dữ liệu nghiên cứu được liệt kê trong Tuyên bố Truy cập Dữ liệu cần được tạo thuận lợi, bao gồm dữ liệu nghiên cứu không được sinh ra ở dạng kỹ thuật số mà nên được lưu trữ theo cách tạo thuận lợi cho nó để được chia sẻ.

4.6 Dữ liệu nghiên cứu và các tập hợp dữ liệu nghiên cứu mà có thể được chia sẻ mở cần được lưu trữ hoặc trong một kho theo chủ đề được thừa nhận hoặc trong một Kho Dữ liệu Nghiên cứu của trường Đại học (BIRD) và siêu dữ liệu được làm sẵn sàng mở.

4.7 Ở những nơi mà bản chất của dữ liệu đến mức cần phải áp dụng các hạn chế truy cập (ví dụ: dữ liệu bao gồm dữ liệu cá nhân có thể nhận dạng được, dữ liệu nhạy cảm hoặc bí mật, dữ liệu nhạy cảm về mặt thương mại hoặc có tiềm năng thương mại, hoặc bạn không sở hữu quyền xuất bản dữ liệu), những hạn chế này nên được quản lý trong kho lưu trữ nếu có thể làm như vậy. Nếu các hạn chế cần phải được áp dụng và ddieuf này không thể quản lý được trong một kho có liên quan, nhà nghiên cứu cần tiến hành tư vấn từ Quản lý Hỗ trợ Dữ liệu Nghiên cứu của trường Đại học và hồ sơ siêu dữ liệu cần phải được tạo ra để cung cấp các thông tin cần thiết, như được liệt kê ở đoạn 4.8.

4.8 Siêu dữ liệu có cấu trúc mô tả dữ liệu nghiên cứu cần được làm cho sẵn sàng tự do không mất tiền trên Internet (như, qua BIRD); trong từng trường hợp siêu dữ liệu đó phải là đủ để cho phép những người khác hiểu dữ liệu nghiên cứu nào đang có, vì sao, khi nào và làm thế nào nó đã được tạo ra, và cách để truy cập nó. Ở những nơi việc truy cập tới dữ liệu đó bị hạn chế, siêu dữ liệu được xuất bản cũng cần đưa ra lý do và tóm tắt các điều kiện phải được thỏa mãn để việc truy cập được trao.

5. Sở hữu trí tuệ (IP) mở

5.1 Sứ mệnh của trường Đại học được chống trụ bởi lòng tin vào giá trị của tri thức, và trường Đại học sẽ phấn đấu để cấp phép cho sở hữu trí tuệ của họ theo cách thức để nó là truy cập được đối với những người khác để sử dụng và hưởng lợi từ nó.

5.2 Thừa nhận rằng trường Đại học là một cơ sở từ thiện cần tôn trọng các điều khoản theo luật từ thiện, và như một đơn vị nhận vốn cấp cảu nhà nước và vốn cấp từ các đơn vị từ thiện khác, nơi một thực thể bên ngoài tìm kiếm để có lợi ích tài chính từ sở hữu trí tuệ được phát triển trong trường Đại học, nhà trường sẽ phấn đấu để đồng ý với các điều khoản với một thực thể bên ngoài mà thừa nhận sự đầu tư tài chính từ nhà trường và các nhà cấp vốn của chúng tôi trong việc phát triển sở hữu trí tuệ đó. Ở những nơi có thể, trong các giới hạn đó, nhà trường thường sẽ không tìm kiếm lợi ích tài chính tức thì từ việc khai thác sở hữu trí tuệ của nó vì lợi ích nhân đạo trước mắt.

5.3 Trong trường hợp nơi một thực thể bên ngoài tìm kiếm những lợi ích phái sinh khác từ sở hữu trí tuệ được sinh ra trong nhà trường mà sẽ không dẫn tới lợi ích tài chính trực tiếp cho thực thể bên ngoài đó, nhà trường sẽ tìm cách tạo thuận lợi cho sử dụng nếu sở hữu trí tuệ của nó hiệu quả. Vì thế, trên cơ sở của các đoạn 5.1 và 5.2 của chính sách này, trong nhiều trường hợp giấy phép CC BY-NC là giấy phép phù hợp nhất để phổ biến các phát hiện nghiên cứu mà nằm ngoài các hần 3 và 4 của chính sách này.

5.4 Ở những nơi một thỏa thuận đạt được nơi mà nhà trường có lợi ích phái sinh từ việc khai thác thương mại vài sở hữu trí tuệ của chúng tôi, các tuyên bố được đưa ra trong Quy tắc Thực hành Sở hữu trí tuệ của chúng tôi sẽ được tuân theo.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

GIÁO DỤC MỞ - TÀI NGUYÊN GIÁO DỤC MỞ: ỨNG DỤNG VÀ PHÁT TRIỂN

Trang Web này được thành lập theo Quyết định số 142/QĐ-HH do Chủ tịch Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam – AVU&C (Association of Vietnam Universities and Colleges), GS.TS. Trần Hồng Quân ký ngày 16/09/2019, ngay trước thềm của Hội thảo ‘Xây dựng và khai thác tài nguyên giáo dục mở’ do 5...

Thống kê truy cập
  • Đang truy cập29
  • Hôm nay7,096
  • Tháng hiện tại264,754
  • Tổng lượt truy cập5,359,156
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây